Vàm
Cổ Cò là nơi đánh dấu điểm khởi đầu của sông Mỹ Thanh và cũng là điểm
cuối cùng của con rạch Cổ Cò. Theo những thư tịch cũ và người dân địa
phương thì con rạch được đặt tên là Cổ Cò bởi con rạch này có nhiều khúc
quanh co có hình dáng giống như cổ của một con cò đang nằm nghỉ, duỗi
dài.
Địa
chí Sóc Trăng 1904 ghi nhận: “Sông ngòi trong tỉnh thông lưu với nhau
một cách tự nhiên hoặc qua các kênh đào, làm cho hệ thống thủy đạo chỉ
là một tổng thể những luồng nước tự nhiên và nhân tạo, chỉ khác nhau ở
bề rộng và độ sâu”. Ngay cả đến bây giờ vẫn vậy, Rạch Cổ Cò với chiều
dài khoảng 18 km thực sự là tuyến lưu thông huyết mạch của toàn bộ lưu
vực Mỹ Thanh từ xưa đến nay. Rạch chạy thẳng từ Nam lên Bắc hướng ra cửa
biển Mỹ Thanh. Ngay đầu vàm là thị tứ khá sầm uất, trung tâm của xã
Ngọc Tố mà cư dân địa phương vẫn gọi là chợ Cổ Cò. Còn vàm sông này thì
được người dân trong vùng gọi là ngã ba Cổ Cò.
Một góc chợ Cổ Cò ngày nay.
Chợ Cổ Cò và phế tích… hồ Tịnh Tâm Rạch Cổ Cò là sự
hợp thành của rạch Nhu Gia từ phía tây đổ về và rạch Ba Xuyên từ mạn
Đông-Bắc chảy xuống. Không chỉ vậy, nguồn cấp nước cho con rạch này còn
là 3 phụ lưu đáng kể khác là: Rạch Cái Giầy từ Bạc Liêu chảy qua đúng
vào vị trí con đường từ Sóc Trăng đi Bạc Liêu và cũng là ranh giới của
hai tỉnh. Phụ lưu khác là rạch Nàng Rền chảy từ hướng Ngã Năm lên. Phụ
lưu cấp nước thứ 3 là rạch Cà Lăm, thông lưu với rạch Chàng Ré và rạch
lớn Nhu Gia. Còn con rạch Ba Xuyên, không chỉ cấp nước cho rạch Cổ Cò mà
còn là một con rạch quan trong của lưu vực này khi vừa thông lưu với
rạch Cổ Cò, lại chảy vào sông Hậu ở vàm Đại Ngãi. Trong những năm đầu
thế kỷ XX, đây cũng là điểm cuối của các tàu thuộc hãng vận tải đường
sông, đảm trách tuyến đường thuỷ các tỉnh miền Tây. Qua phà Dù Tho, đi
lên một đoạn chừng 2 km sẽ gặp ngay tuyến đường Tỉnh 936 dài khoảng 12
km, nối liền các xã: Ngọc Đông, Ngọc Tố, Hòa Tú 2… nối với Huyện lộ
14 để trổ ra Quốc Lộ 1A. Cũng còn ít nhất là 2 tuyến khác có thể tới
Cổ Cò là đi theo Tỉnh lộ 8, đến chân cầu Mỹ Thanh 1 thì rẽ phải, qua đò;
hoặc đi ngã Tham Đôn, qua ngã Hoà Tú 1, xuôi xuống Ngọc Đông rồi tới
Ngọc Tố - Cổ Cò. Dù là khu chợ của xứ nhiều sông, rạch nhưng bây giờ đến
chơi chợ Cổ Cò thật dễ dàng với phương tiện xe gắn máy. Chợ Cổ Cò án
ngữ cuối vàm Cổ Cò, đây cũng là trung tâm của xã Ngọc Tố, 1 trong 6 xã
vùng tôm-lúa của huyện Mỹ Xuyên. Ngọc Tố hiện là
xã có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất ở huyện Mỹ Xuyên với số hộ nghèo
chỉ là 5% theo tiêu chí cũ. Chợ Cổ Cò là nơi thuận tiện mua bán, giao
thương bởi đây là nơi giáp ranh 3 huyện: Mỹ Xuyên, Trần Đề và Vĩnh
Châu. Hiện nay, chợ Cổ Cò tập trung 56 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
và khoảng 150 hộ kinh doanh, mua bán. Chưa tính những hộ buôn bán nhỏ lẻ
theo kiểu tự sản, tự tiêu. Khu vực trung tâm hành chính của Ngọc Tố
cũng đang được xây dựng với Nhà Văn hoá, trụ sở Uỷ ban nhân dân xã cùng
những thiết chế văn hoá ở cơ sở. Dù là một xã vùng sâu nhưng Ngọc Tố
cũng đã có trường Trung học phổ thông từ khá lâu. Theo ký ức của những
người cố cựu ở xứ này thì chợ Cổ Cò bắt đầu lên nhà tường, nhà lầu vào
những năm 60 của thế kỷ XX.
Ông Huỳnh Thanh Danh kể chuyện Cổ Cò ngày trước.
Ông Huỳnh Thanh
Danh (65 tuổi) cho chúng tôi biết: “Những năm 59-60, Ngô Đình Diệm xây
dựng khu trù mật Hoà Tú không phải ở đây mà ở mé trong đồng. Diệm cất
một dãy phố 20 căn ở giữa ruộng, trong khi xứ mình là xứ sông nước-thời
đó làm gì có đường xá, xe cộ như bây giờ! Cái chợ của khu trù mật đó làm
ăn hổng xong vì hổng phù hợp nên khoảng 1 năm sau, người bán buôn cũng
từ từ chuyển về ngay lại chỗ cũ! Tức là khu vực chợ mình bây giờ ven
theo mé sông… cũng cất nhà lá tạm bợ để bán buôn thôi. Từ từ một số
người làm ăn khá lên thì cất nhà tường, rồi 1-2 cái nhà lầu. Còn số nhà
lầu sau này thì chỉ có từ sau năm 75… Tôi và quay phim
Lâm Huy theo đường cũ ra vị trí của khu trù mật năm xưa. Từ con lộ
chính, chúng tôi theo một nhánh lộ đất đi ra mé sau đồng với hai bên
đường là những vuông tôm san sát nhau. Dấu tích của khu trù mật xưa giờ
vẫn còn và hầu như người ở xứ này ai cũng biết-đó là Hồ Tịnh Tâm, nằm
lọt thỏm giữa những vuông tôm. Hồ Tịnh Tâm là một mô-típ chung của các
khu trù mật được Ngô Đình Diệm dựng nên… cũng hồ nước rộng ở giữa là một
cù lao có trồng cây xanh và dựng ở đây một căn nhà mát mà hình dáng đều
na ná nhau, kiểu như nhà mát ở hồ Tịnh Tâm trong Khu Hồ Nước Ngọt vậy!?
Tôi cũng đã ngắm căn nhà mát kiểu này ở Hồ Tịnh Tâm TX.Vị Thanh (Hậu
Giang) nên mới có suy luận như vậy!?
Phế tích “Hồ Tịnh Tâm Cổ Cò”.
Hồ Tịnh Tâm ở Cổ
Cò giờ chỉ còn duy nhất là hình dáng của…một hồ nước trong xanh, cây tạp
mọc lúp xúp quanh bờ. Những tảng đá ngày xưa dùng làm non bộ cũng đã bị
người dân phá dỡ lấy về làm vật liệu xây dựng. Một bầy Le le 6 con vô
tư dạo trong hồ nước, bất chấp 2 ông quay phim, chụp ảnh đang lia máy
theo để…bắt cho được khung hình thuộc dạng quý hiếm này. Thế mới biết
rằng-điều gì không hợp với thực tế của cuộc sống, không hợp với đạo lý
và lòng dân thì trước sau gì cũng trở thành phế tích. Điều gì làm nên thương hiệu… bánh in Cổ Cò? Một mặt hàng được
nhiều người đến đây tìm mua và xem như là một mặt hàng đặc sản chính là
bánh in-bánh in Cổ Cò. Bánh in ở đây tuy nhỏ nhưng được đúc dầy hơn và
có vị ngọt hơn những loại bánh in ở nơi khác. Sở dĩ sản phẩm này từng có
tiếng trong vùng bởi cách chế biến hết sức công phu, dù nay đã phần nào
mai một chút ít bởi phương thức sản xuất công nghiệp.
Cụ Châu Văn Háo và tác giả.
Cụ Châu Văn Háo
(87 tuổi) - một người cố cựu ở xứ này và cũng là người có tay nghề làm
bánh in lâu năm nói cùng chúng tôi về công phu để làm nên thương hiệu
của bánh in Cổ Cò khi xưa như sau: - Chất liệu để làm
bánh in Cổ Cò xưa cũng là từ bột nếp thôi. Nhưng đầu tiên là nếp đó đem
đi xôi lên, sau đó phơi khô và rang cát cho thật khô rồi mới xay trong
cối xay đá. Bây giờ thì người ta lên bột bằng cách “thổi phùng” rồi
nghiền bằng máy. Làm kiểu mới thì bột tốt và mịn lắm… nhưng bột này
không có hương thơm, mùi thơm của nếp mới. Với bột làm theo cách cũ khi
mình chỉ cần để ở xa cũng đã bay hương thơm đặc trưng của bánh in. Trong kỳ tiếp theo
của loạt ký sự này, chúng tôi sẽ dành thời gian để tìm hiểu xem vàm Cổ
Cò là ngã ba hay ngã tư? Và đến thăm Tổ đình Quốc tổ Lạc Hồng nằm bên
vàm sông này.
Trên suốt tuyến tả ngạn Mỹ Thanh bây giờ, ai cũng có thể đi ngoạn cảnh bằng
xe hơi, xe máy...xem những vuông tôm quạt chạy rào rào, tới mùa thì máy gặt đập
chạy ầm ì trên ruộng nhưng nếu không phải người ở đây thì ít ai biết rằng, mới
cách đây quãng hơn chục năm-xa lắm là chưa tới 20 năm, vùng đất này nổi danh
với tên gọi là Cánh Đồng Năn.
Đồng Năn hôm nay (NSNA Văn Ngọc Nhuần)
Nhìn những cánh đồng lúa xanh tươi đang thời con gái mượt mà, những con lộ
nhựa, lộ Dal chạy qua những thôn xóm sầm uất..mấy ai ngờ được ngày xưa, đất
vùng này đã phèn lại còn nhiễm mặn nặng nên trên những cánh đồng ở xứ này nhìn
đâu cũng là Năn !? Năn ở đây toàn là Năn Bộp, cọng lớn như chiếc đũa. Qua mùa
hạn thì năn kết củ, nấu lên ăn bùi bùi, ngòn ngọt.
Đồng Năn những năm 1980 (NSNA Văn Ngọc Nhuần)
Những đứa trẻ ở Cánh Đồng Năn những năm 1980
(NSNA Văn Ngọc Nhuần)
Đồng Năn những năm 1980 (NSNA Văn Ngọc Nhuần)
Đồng Năn ngày trước rộng hơn 5.000 ha, bao gồm khu cửa biển Mỏ Ó và cả một
dải dọc theo tả ngạn sông Mỹ Thanh dài hơn 10 cây số, trải dài từ xã Liêu Tú,
lịch Hội Thượng đến tận Trung Bình. Đồng Năn ngày trước thuộc trước huyện Long
Phú, ngày nay năm trọn ở huyện Trần Đề.
Từ một vùng đất đầy năn, lác..Đồng Năn giờ đây đã đổi thay diện mạo, trở
thành đồng tôm công nghiệp có một không hai của cả nước, góp phần chuyển dịch
mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh Sóc Trăng.
Những người của hơn 20 năm trước
Sau giải phóng miền nam năm 1975, đất nước ta gặp bao khó khăn vì lệnh cấm
vận của những thế lực thù địch...một trong muôn vàn khó khăn, vất vả ấy là
thiếu lương thực. Để giải quyết khó khăn này, tuyến đê ngăn mặn Long Phú-Tiếp
Nhựt dài hơn 50km bắt đầu từ xã Song Phụng chạy dài tới tận Tổng Cán đã được
xây dựng; những tuyến kênh thủy lợi trung thủy nông và nội đồng ở các địa
phương cũng được thi công. Và trong khoảng thời gian những năm 1981-1982, Đảng
bộ và nhân dân huyện Long Phú đã mở nhiều đợt “chinh phục” Đồng Năn để trồng
lúa. Câu khẩu hiệu của ngày ấy mang đậm quyết tâm của lòng dân-ý đảng : ‘’Giải
phóng Cánh Đồng Năn’’.
Về Đồng Năn hôm nay, muốn hỏi chuyện xưa không thể quên những con người giờ
như là những trang sách lưu đậm nét dấu ấn của một thời hừng hực khí thế
"Giải phóng Cánh Đồng Năn"! Đó là 2 lão nông cố cựu Sáu Khởi (Đặng
Văn Khởi - 56 tuổi) và Ba Tiềm (Võ Văn Tiềm-58 tuổi). Muốn tìm chú Sáu thì dễ
lắm-cứ đến đầu lộ Mỏ Ó-đến ngay cống 6 Quế 2 hỏi nhà là ai cũng biết.
Chú Sáu Khởi (bên phải) và Chú Ba Tiềm cùng tác
giả ở cống Sáu Quế 1
Chú Sáu khởi giờ đã chuyển qua canh tác tôm nước lợ, nhưng ngày nay mấy ai
biết về một quãng thời gian dài chúlà
một trong những người đầu tiên hết mình vì cây lúa trên Cánh Đồng Năn. Những
câu chuyện mà hai lão nông « cố cựu » ở đất này đã giúp chúng tôi tái hiện lại
khá trọng vẹn khung cảnh của những cuộc tiến quân « Giải phóng Cánh Đồng Năn »
ngày ấy. Chú Sáu kể chuyện xưa thời mới bắt đầu làm lúa mà bọn tôi chỉ nghe không
thôi cũng đã dội ngược trong khi chú thì vừa cười vừa nói :
- Quãng mấy năm 80 đó thì ai muốn làm bao nhiêu thì làm. Cứ vô đồng Năm vác
theo mấy cái cây để dành cặm ranh. Lộ cho đã để lựa...cúi xuống nếm thử miếng nước,
nó mà ba chè thì tiếp tục đi chỗ khác. Thấy ưng bụng chỗ nào thì cặm....Cứ đi mà
cặm tới. Còn làm lúa hả ? Đất ở đây cày thì lên phèn nên chỉ mướn người ta
phát, một năm có khi phải phát 2-3 lần rồi vác bả đó đi rải đều khắp ruộng, đợi
nó mục xuống thì đi mua mạ về cấy chớ ở đây đâu có gieo mạ được. Muốn cấy phải đi
xuống tuốt dưới ấp Bưng Lứccũng phải 15
cây số mua mạ. Ngặt là người ta cũng cấy nên phải đợi người ta cấy xong có dư mạ
thì mới bán cho mình. Mua được một ghe mạ đem về kể như mừng lắm rồi. Một bó mạ
đem về đây thôi thì quá cực. Tới bờ kênh thì pah3i khiêng, phải gánh từ bó đem
vô đồng của mình. Có khi mình cấy xong thì vài bữa là nó muốn trổ bông rồi...bị
vì mạ người ta quá già. Mà xướng một cái là...hễ cấy chỗ này hổng êm thì bỏ...đi
kiếm chỗ khác cấy nữa...
Tôi hỏi :- 1 công khi đó mình kiếm được cỡ bao nhiêu giạ ?
Lão nông Ba Tiềm chen vào : - 5-7 giạ là cùng. Trúng nhứt thì cũng hổng
tới 15 giạ ! Chú Sáu bổ sung :- 15 giạ thì phải đợi tới mấy năm sau mới
có khi thời kỳ làm thần nông đỏ rồi đó ! lúc đầu mình làm keo trắng, keo đỏ,
ba thiệt đó...thiệt cỡ nào cũng đi tiêu hết. - Hai lão nông bật cười sảng khoái.
Chú sáu khởi tâm sự : Thời đó cũng đeo dữ dằn lắm. Đảng viên mà !
Mần biển bao nhiêu đổ hết vô cây lúa. Có lúc tôi làm tới hơn 60 công đất mà cuối
cùng kêu công cắt vô ‘’cắt chia hai’’ người ta còn hổng cắt. Tới năm 88 thì kể
như nghỉ luôn.
-Tới năm 88-89 là ở đây mình đã bắt đầu cấp đất rồi. tới lúc đó thì cây lúa
kể như là dứt, mình vận động bà con mình chuyển sang làm con tôm. Mà lúc đó chủ
yếu là nuôi tự nhiên. Mà lúc đó cá, tép còn rất dồi dào nhưng giá cá thì quá thấp.
Hồi đó tui bán 5-600 ký cá kèo mà sắm chưa được 1 chỉ vàng.
Hai lão nông đã dẫn chúng tôi đến Cống Sáu Quế 1-con cống đầu tiên đánh dấu
quá trình khai phá cánh Đồng Năn, chứng tích của những ngày tháng gian nan
nhưng hào hùng của những ngày đầu vỡ đất. Con đê ngăn mặn ngày trước vẫn còn
lại vài dấu tích vì ngày nay, hầu như tuyến đường Nam Sông Hậu đã nằm hẳn trên
con đê này. Lão nông Ba Tiềm và Sáu Khởi hào hứng kể cho chúng tôi nghe về
những ngày làm thủy lợi khai phá Đồng Năn.
-Thời đó đi làm thuỷ lợi bà con mình còn dùng từ ‘’đi công tác’’. Thông thường
1 năm có 2 đợt. Hầu như nhà nào nhà nấy đều có ít nhất 2 cây leng ? 1 cây
leng ống và 1 cây leng bản. Leng bản để dành cạy, dỡ lớp trên mặt, leng ống dùng
để đào đất mềm ở dưới...Thời đó chỉ cần cán bộ ấp mang chiếc loa cuốn bằng tôn đi
phát loa thông báo ngày ra quân làm thuỷ lợi là tới buổi đó là bà con mình tập
trung để đi liền.
Lão nông Sáu Khởi nói vẻ như tiếc nuối khi nhìn chúng tôi cùng với máy ảnh,
máy quay phim, máy ghi âm vác trên vai lỉnh kỉnh : - Thời đó mà có quay
phim như vậy giờ thì đẹp lắm, vui lắm...Người đông như hội....trải dài trên cả
một cánh đồng dài 1-2 cây số. Rồi băng, cờ, khẩu...văn nghệ hát hò sôi nổi.
Văn nghệ trên công trường đào kênh ở Cánh Đồng Năn
những năm 1980 (NSNA Văn Ngọc Nhuần)
Đứng trên đỉnh cao của cống Bà Sáu Quế, nhìn Đồng Năn bây giờ trải dài mút
tầm mắt là những vuông tôm công nghiệp; những căn nhà ngói đỏ...chúng tôi không
còn nhận ra Đồng Năn ngày trước !? Anh Bảy Nam (Quách Văn Nam – G.Đ Sở
NN&PT nông thôn Sóc Trăng) bồi hồi nhớ lại thời mà những người đi cắm cọc
tiêu để đào kênh phải phát chấp, vẹt lau sậy đểphóng tuyến...tất cả vẫn còn như in trong tâm trí những người cán bộ
thủy lợi của một thời gian khó ấy.
-Khi khởi công cống Sáu Quế 1 tôi là một cán bộ thuỷ lợi mới ra trường. Vì
là vùng nề cát nên móng cống không thể dùng cừ tràm để đóng được. Phần kế thi công
theo kỹ thuật cừ bản đuôi cá được đóng phía trước và phía sau để ngăn cát. Hồ
miình đi học thì chưa có học kỹ thuật này. Thành ra tất cả anh em đều xắn tay
nhảy xuống làm, mà đóng. Lúc ấy tất cả đều bằng tay, thủ công hết. Cừ bản bề rộng
khoảng 2 tấc, dầy 1 tất, cưa thành cái đuôi cá rồi ghép lại rất khó khăn...mà vùng
đó đâu có nước ngọt nên phải xài nước giếng từ việc trộn bê-tông, nấu nướng, tắm
giặt....
Anh Trần Văn Cứ (trưởng trạm quản lý thuỷ nông huyện Trần Đề)- một trong những
người của ‘’cống Sáu Quế 1’’ bổ sung : - Tất cả đều phải kéo nước, gánh nước
từ trên đoạn đường từ giồng Bà Vĩnh về đến điểm thi công. Khối lượng bê tông là
rất lớn nên anh em phải gánh nước dự trữ, gánh nhiều ngày để trữ trong phuy,
trong bồn... Ròng rã hơn nửa năm như vậy đó !
Anh Bảy Nam (bên phải) và Trần Văn Cứ trò chuyện
cùng tác giả về quá trình làm cống Sáu Quế 1
Gọi là Đồng Năn nhưng bây giờ đến đây, tìm một cọng Năn Bộp sao thật khó
quá... có còn chăng là vài đám Năn Chỉ, xen lẫn vài bụi Năn Bộp ở mấy miếng
bìa, chéo ven đường. Tất thảy đều đã là những vuông tôm công nghiệp... Đường
điện, điện thoại dăng mắc khắp đồng. Ban đêm, đèn điện sáng trưng, lấp lánh
trên cánh đồng nhưđêm hội hoa đăng.
Đi chơi Mỏ Ó và bãi Hội Bình
Đến vùng đất tả ngạn Mỹ Thanh, nếu chưa đến Mỏ Ó, khám phá bãi Hội Bình
(tên quen thuộc là bãi Giá), rồi thăm cảng cá Trần Đề...thì kể như chưa trọng
vẹn.
Mỏ Ó là tên chỉ dải đất cuối cùng của Bãi Hội Bình nhô ra biển, có thể xem
đây là điểm mốc giao nhau trên đất liền của cửa sông Mỹ Thanh và dòng Hậu Giang
trước khi đổ nước ra biển Đông. Đứng bên xóm chài Mỹ Thanh nhìn qua...mỏm đất
này có hình thù nhọn như mỏ của một con ó đang mổ ra phía biển nên được mọi
người đặt cho cái tên Mỏ Ó.
Bãi biển Mỏ Ó những năm 1980 (NSNA Văn Ngọc Nhuần)
Chú Đăng Ngọc Chói-một người kỳ cựu ở đây dẫn chúng tôi đi thăm lại dấu
tích bãi cát ngày xưa mà nay chỉ còn hình ảnh con sót lại của một nổng cát với
những chùm hoa muống biển. Bãi cát ngày xưa nay đã là một dải rừng rừng bần
mênh mông chạy dài từ Mỏ Ó đến tận Bãi Giá. Một dự án du lịch sinh thái cũng đã
được khởi động ở vùng rừng ngập nước ở cửa sông này.
Xóm chài Mỏ Ó ngày trước nằm ở ngay đầu doi, trải dài tới đầu bãi Hội Bình
khi ấy là cả một dài cát dài hơn 3km. Sau trận sóng thần năm 1992, những cư dân
ở đây được di dời vào 2 tuyến khu dân cư mới ở phía trong đê mà tuyến 1 nằm ở
mé trong với bến cá hiệngiờ khá sầm
uất..còn tuyến 2 thì lại ở mé ngoài Giồng Bà Vĩnh với nghề canh tác rẫy : trồng
đậu phộng, trồng dưa hấu, trồng bắp tuỳ theo mùa.
Xóm Mỏ Ó những năm 1980 (NSNA Văn Ngọc Nhuần)
Chúng tôi tin rằng rồi đây, Mỏ Ó sẽ đẹp, sẽ trù phú hơn ngày xưa nhiều bởi
những con người nơi đây vẫn luôn mang trong mình tình yêu quê hương mãnh liệt.
Chú Bảy Chói (Đăng Ngọc Chói-65 tuổi) ở ấp Mỏ Ó khi trò chuyện cùng chúng tôi đã
giới thiệu về mảnh đất này qua bài thơ có tên Mỏ Ó* của nhà thơ Diệp Vũ, (sáng
tác vào khoảng nhưng năm 80 của thế kỷ XX) mà theo chú Bảy thì ‘’chưa có bài thơ,
bài ca, bài báo nào viết về Mỏ Ó có thể qua được bài thơ này’’. Tôi trích ra đây
vài câu thơ đầu :
Mỏ Ó ! cái tên nghe ngồ ngộ.
Ở nơi đây có nhiều ó lắm chăng ?
Câu trả lời không ai biết nguồn căn...
Tên Mỏ Ó đặt nên từ muôn thủa.
Ở một nơi xa côi và cách trở.
Cửa Mỹ Thanh gió thổi bốn mùa.
Nơi sóng vỗ bờ nhiều tôm cá,
Ngày cuối cùng quân giặc chịu thua.
Tôi trở lại với trời xanh bãi cát,
Những hàng rau muống biển xanh tươi.
Những đoàn thuyền ra khởi đánh bắt
Sóng chiều lên Mỏ Ó reo cười...
.....
Chú Bảy Khói và tác giả trên bãi Mỏ ó giờ đã thành rừng
Từ Mỏ Ó, ngược theo đường Nam Sông Hậu về cảng Trần Đề là xóm chài Bãi Giá
ở ngay đầu bìa rừng. Thật đẹp và nên thơ khi trên những chiếc ghe, tàu đi
biển...những cô gái, các chị thoăn thoắt đôi tay vá lưới. những gò má thiếu nữ
ửng hồng, e thẹn trước ống kính máy ảnh, máy quay phim. Bãi Giá đẹp, Bãi Giá
thật nên thơ nên cũng không lạ khi đây là điểm đến để vẽ tranh, tìm cảm hứng
sáng tác thường xuyên của những hoạ sĩ và văn nghệ sĩ.
Điểm đến cuối cùng trên tuyến tả ngạn Mỹ Thanh mà chúng tôi ghé chơi là
cảng cá Trần Đề - một điểm nhấn về phát triển kinh tế biển của tỉnh Sóc Trăng
trên tuyến Nam Sông Hậu. Cuộc trò chuyện với giám đốc cảng Trần Văn Chiểu đã
mang đến cho chúng tôi nhiều thông tin thú vị khi anh ví von về địa thế của Cảng
Trần Đề hiện tại đảm bảo đủ ‘’thiên thời-địa lợi-nhân hoà’’:
- Đường Nam Sông Hậu đã mở xong thì giao thông hoàn toàn nối liền bến cảng
với các trung tâm chế biến hàng thuỷ sản. An ninh trật tự ở đây thì khỏi chê-rất
an toàn cho các tàu cá vào bơ lên hàng. Dịch vụ hậu cần nghề cá cũng đảm bảo.
Trung bình 1 tháng có hơn 250 tàu cá lớn nhỏ cập bến lên hàng cũng đủ thấy tiềm
năng của Cảng Trần Đề. Chưa tính tới vị trí của cảng với vùng khai thác biển Tân
nam là rất thuận tiện.
Cảng Trần Đề hôm nay
Chuyến phiêu du tả ngạn Mỹ Thanh của chúng tôi kết thúc bằng một bữa tiệc
do Hảo - một ‘’thổ địa’’ ở cảng cá chiêu đã với lời giới thiệu : Đến Trần Đề mà
chưa ăn con cá này thì cứ kể như là chưa đến. Đó là con cá Xạo. Cá xạo ngon
phải là con cá ‘’trân’’-nghĩa là khi bẻ phần vi đuôi của con cá thì nó chỉ cong
gập lại chứ không gãy. Đó mới lá con cá xạo Ngon nhất. Cá xạo hôm nay được làm
2 món phổ thông nhất ở đây là ...rang muối và nấu xá pấu. Sơn - Đầu bếp quán
Quốc Việt lý giải với chúng tôi là :
-Cá xạo thịt ngọt, lành...Ăn no bụng cũng không sao. Cá này rang muối thì để
lại đầy đủ vị ngọt, thơm của thịt cá. Ăn kèm với rau thơm, bún, bánh tráng thì
có thể thay cơm mà không lo ‘’chọt bụng’’. Còn nấu với xá pấu thì mang ‘’âm hưởng’’
của người Hoa vì vừa chế biến nhanh, vị ngọt đậm đà cùng mùi thơm của thịt cá sẽ
cho thực khách một cảm giác hơi khó tả...
Nếu một ngày nào đó, ta cảm thấy những bức tường vuông vức trong căn phòng
máy lạnh trở nên chật hẹp, ta cần những không gian thoáng đãng với mây trời,
với gió biển....hãy dành chút thời gian đến với Đồng Năn, đến với Mỏ Ó, Bãi
Giá...ghé chơi cảng Trần Đề. Tin rằng - bạn sẽ thấy thêm yêu con người cùng
khung cảnh thiên nhiên hoà quyện sau mỗi chuyến phiêu du./.
Từ ngã ba Tài Văn, xuôi theo
tỉnh lộ 8, dọc theo kênh Tiếp Nhựtkhoảng 15-16 cây số là đến một thị trấn khá sầm uất nằm ở tả ngạn Mỹ
Thanh – đó là thị trấn Lịch Hội Thượng. Vốn là một khu dân cư sầm uất từ xưa,
không ít người đã ví von rằng : ‘’Cái chợ ba dấu nặng này trước giờ luôn là
điểm trung tâm của chiếc đòn gánh – gánh cả hai bờ tả - hữu Mỹ Thanh’’.
Bản đồ khu vực Tả ngạn Mỹ Thanh năm 1881
Rạch Gòi - Lịch Hội Thượng
Cho đến tận hôm nay, vẫn còn rất nhiều người gọi thị trấn Lịch Hội Thượng
bằng một tên xưa cũ - chợ Gòi. Địa danh này bắt nguồn bởi một từ gốc khmer Prék
Koi do đọc trại ra âm tiếng Việt - rạch Gòi hoặc từ cách phiên âm tiếng pháp.
Cuối thế kỷ 19, địa danh gốc này đã được ghi nhận trên bản đồ của chính quyền
thực dân Pháp.
Một căn nhà xưa ở TT.Lịch Hội Thượng
Còn với những người Hoa đã sinh sống ở đây từ xa xưa thì Lịch Hội Thượng
lại có tên gọi mà phiên âm Hán Việt là : pha lễ bán. Cụm từ này dùng để chỉ
hình thế của vùng đất này là cao ráo nhưng không bằng phẳng ; phân nửa là
rừng. Phải chăng đây chính là hình thế đất giồng ? Dù tên có gì thì vẫn cần
phải khẳng định rằng : nơi đây đã là một trung tâm buôn bán-trao đổi hàng
hoá có từ lâu đời và vẫn phát triển cho đến tận hôm nay. Và cũng trên vùng đất
này, cộng đồng 3 dân tộc : Kinh-Hoa-Khmer đã sống cộng cư từ lâu và cùng nhau
khai khẩn vùng đất này.
Lịch Hội Thượng xưa thuộc tổng Định Mỹ với trên 5.000 dân, vốn là hai làng
Lịch Hội Trung và Lịch Hội Thượng hợp lại và đây là một khu dân cư quan trọng. Còn
Dư địa chí Sóc Trăng năm 1936 thì ghi nhận Rạch Gòi là 1 trong 13 trung tâm thương
mại của tỉnh Sóc Trăng được xây dựng bên cạnh conra5ch cùng tên : ‘’Chợ Rạch
Gòi được chuyển thành trung tâm thị tứ loại 3 theo nghị định ngày 13/8/1925, là
một khu dân cư khá quan trọng nằm ở đông-nam tỉnh Sóc Trăng...Hồ dđầu thế kỷ
XX, Rạch Gòi đã có 787 dân đăng tịch, đa số là người Kh’mer và người Hoa, liên
thông với qua con đương hàng tổng dài 14 km’’.
Có một thực tế là mặc dù không có vai trò quan trọng về thương mại nếu chỉ
nhìn ở góc độ hàng hoá chính yếu của Sóc Trăng khi ấy là lúa gạo, nhưng chợ Rạch
gòi đã là một trung tâm buôn bán-trao đổi hàng hoá nhu yếu phẩm thei61t yếu của
cả một vùng đất rộng lớn hai bên bờ sông Mỹ Thanh bởi khi xưa, giao thông chủ yếu
của cư dân trong vùng này vẫn là đường thuỷ chứ không phải là đường bộ như bây
giờ...vai trò ấy vẫn giữ vững cho đến ngày nay.
Ông Hồ Xuân Vĩnh (65 tuổi), chủ tiệm bánh Đức Phát cho biết rằng tiệm bánh
của ông đã có từ 3 đời nay, chuyên làm đủ các loại bánh mứt như thèo lèo, bánh
pía, bánh trung thu.v.v. Từ thời những năm 40 của thế kỳ XX và cả sau đình chiến
năm 1954, tiệm Đức Phát luôn là tiệm bán buôn cả sỉ và lẻ cho các tiệm nhỏ từ vàm
Dù, Vàm Lẻo, chợ Giồng Chùa, Lạc Hoà (của Vĩnh Châu) và bên tả ngạn là suốt từ
chợ Bãi Giá (Long Phú) cho đến Tài Văn (Mỹ Xuyên). Mức độ buôn bán hầu như cứ
giữ nguyên và có phần phát triển mạnh lên sau khi được tách ra thành huyện Trần
Đề.
Ông Nguyễn Đại Lượng, Nguyên bí thư TT.Lịch Hội Thượng những năm 80 của thế
kỷ XX thì ví von hơn : ‘’Chợ Gòi dù nằm bên tả ngạn Mỹ Thanh nhưng lại có
vai trò như là phần giữa của một cái đón gánh – gánh cả hai bờ Mỹ Thanh vì ngày
trước, hệ thống đường xá nào được như bây giờ. Đi chợ Gòi với một phần các xã vùng
sâu của huyện Vĩnh Châu là thuận tiện hơn cả.
Những góc phố cũ mái ngói âm dương cổ kính chen lẫn những căn nhà mới xây
tươi mới vươn cao, chen lẫn những mảng rêu phong dọc mái hiên tựa như dấu ấn thời
gian vẫn còn khắc ghi đậm trong câu ví von của không ít người nơi đây mà tôi chép
lại : ‘’cái chợ ba dấu nặng này trước giờ luôn là điểm trung tâm của chiếc
đòn gánh – gánh cả hai bờ tả-hữu Mỹ Thanh’’ !
Chợ Gòi - Lịch Hội Thượng giờ đang chuyển mình trong một vị thế mới, là thị
tứ trung tâm của huyện ven biển Trần Đề với thế mạnh kinh tế chủ lực là nuôi trồng
thuỷ sản và khai thác biển. Chợ Gòi cũ giờ đã quá tải và đang rất cần khoác lên
mình một chiếc áo mới tương xứng. ngồi trò chuyện bên góc Chợ Gòi với anh Ánh,
anh Kiệt, anh Phước...những người đang buôn bán và làm việc ở chợ Lịch Hội Thương,
tôi chợt nhận thấy chuyện xây chợ, phát triển chợ sao cho đẹp, cho thuận tiện bán
buôn đang là điểm tương đồng của cả người dân và nhà nước. Anh Lý Tuấn Kiệt-chủ
tiệm vàng Tuấn Kiệt, người đăng ký cả 4 gian ki-ốt ngay đầu nhà lồng chợ mới đang
trong quá trình xây dựng cho biết :
-Làm cái nhà lồng chợ mới này thì nhà nước làm ‘’chủ xị’’, còn những người
kinh doanh có nhu cầu thì góp vốn để xây chợ. tất cả đều thông qua họp dân, bàn
bạc các thứ hết. Từ góp ý cho thiết kế, góp ý việc xây dựng, giám sát.v.v.rồi
phân chia thời gian và các đợt góp vốn. Nói chung là... ‘’hợp tác vui vẻ’’ !
....và
những ngôi chùa chứng tích chiến tranh
Trong chiến tranh chống Mỹ, chợ Lịch Hội Thượng vốn là một chợ trung tâm quận.
Chính vậy nên những vùng ven, vùng lân cận quận lỵ thường xuyên bị Mỹ, Nguỵ chà
đi-sát lại hòng đánh bật lực lượng du kích, bộ đội địa phương bám dân, bám đất
dọc hai bờ tả-hữu Mỹ Thanh. Đặc biệt là vào những 60 của thế kỷ XX. Nghe chú Ba
Hưng (74 tuổi-nguyên Huyện uỷ viên huyện Lịch Hội Thượng) kể chuyện chiến trường
ác liệt, rồi những trận đánh năm xưa mới cảm thấy khâm phục lớp cha anh của một
thời bom đạn ác liệt nhưng oai hùng thủa nào. Trong khoảng thời gian từ năm
1965 đến 1968, Mỹ-Nguỵ thường xuyên rải chất độc hoá học làm rụng lá cây dọc
theo những cánh rừng hai bên bờ Mỹ Thanh. Chính vì vậy mà bộ đội, du kích cũng
phải di động, thường xuyên thay đổi chỗ ở. Rồi bọn biệt kích khét tiếng do tên
Mương chỉ huy thường xuyên đột kích, rồi lính bảo an ở Phân khu Bảo An đóng
ngay vàm Bãi Giá kềm siết và chà đi sát lại. Chỉ cần nghe tin ‘’Việt Cộng đi’’
là bọn bảo an bố trí bao đánh. Ngay cả tiểu đoàn địa phương quân của tỉnh cũng
gặp không ít khó khăn khi hoạt động ở vùng này.
-Cái vùng đó là vùng chiến lược, cửa ngõ của tỉnh đổ ra biển mà ! Đời
sống của mình lúc đó thì thôi..thiệt gian khổ. Được một cái là lực lượng của mình
cỡ tụi tui lúc đó đều còn trẻ..cỡ 27-28 và lớn lắm là 30 tuổi. Còn nhiều anh em
du kích đa phần từ 20 tới 25. Do đó tất cả những khó khăn, tất cả những bom đạn,
tất cả chuyện thiếu cơm ăn, thiếu áo mặc tụi tui đều vượt qua được.
Chú Ba Hưng và tác giả
Chuyện bom đạn ì đùng và khủng khiếp như thế nào thì lớp trẻ ngày nay chỉ
thấy..trên phim...nhưng đến vùng đất này thì chỉ cần đến thăm 2 ngôi chùa là Prêk
Chat ở Giồng Chát và Long Thiền Tự ở Tổng Cán thì sẽ cảm nhận ngay được cái ‘’tàn
bạo, khốc liệt’’ của chiến tranh được ngay. Riêng toi thì lại nghĩ ‘’Nếu đã chiến
tranh thì cửa phật cũng không chừa’’ ?
Chánh điện chùa Prêk Chat
Chùa Prêk Chat ngày nay đã được xây dựng lại mới và thật đẹp trong quang cảnh
rộng rãi của làng quê thanh bình, nhưng trong khuôn viên chùa - bia chứng tích
chiến tranh vẫn ghi rõ : ‘’ngày 8/5/1965, chính quyền Mỹ, Nguỵ đã dùng máy
bay ném bom thảm sát, giết và làm bị thương trên 300 thường dân vô tội (đa số là
người già, phụ nữ và trẻ em) ở các xã Lịch Hội Thượng, Liêu Tú thuộc huyện Long
Phú, tỉnh Sóc Trăng. Đây là những tội ác dã man do bọn Mỹ, Nguỵ gây ra sau những
thất bại nặng nề trên chiến trường miền nam Việt Nam’’.
Chú Thạch Chuốt (65 tuổi), một nhân chứng của vụ thảm sát năm ấy giờ cất nhà
ngay cạnh chùa kể lại :
-Khi ấy tôi cũng đang tu tập ở chùa này. Vệt bom trải dài từ Tổng Cán vắt
sang đây. Sa-La của chùa cũng trúng một trái. Sau đợt bom, tui cùng những vị sư
ở đây và những người khác nhào đi cứu thương, tìm kiếm và khâm liệm những người
chết dọc dải giồng này. Cảnh tượng khi đó thảm lắm...nhà sập, nhà cháy, người
chết rồi tiếng kêu khóc làm người ta phải ám ảnh cả một thời gian dài.
Cũng hứng trọn một trái bom trong tháng 5 ấy là Long Thiền Tự nằm ở cuối rạch
Tổng cán. Chánh điện ngôi chùa này hứng trọn trái bom nên sập hoàn toàn. Hố bom
ngày xưa giờ đã được lấp và trên chính hố bom ấy, một Lâm Tì Ni đã được dựng lên
hẳn như một ước nguyên cho hoà bình, an lạc.
Tác giả và cô Diệu Hương đang "thăm" những pho tượng "thương binh"
Thế nhưng điểm đặc biệt nhất của Long Thiền Tự chúng tôi chỉ được biết
khi cô Diệu Hương dẫn chúng tôi vào gian chính điện hiện tại và chỉ cho xem những
pho tượng gỗ. Tất cả các pho tượng đều mang trên mình dấu tích của chiến tranh.
Cô cho biết : tượng 18 vị La Hán do bằng sành nên đều vỡ nát, chỉ còn lại
21 pho tượng gỗ dù bị hư hỏng nhưng đều đã được phục hồi và tu sửa lại. Đó là
những tiên ông, hộ pháp, phật Di Lặc, Văn Thù...rồi Phật Tổ đều mang dấu tích...đó
có thể một vạt gỗ ở cánh tay bị mảnh dom vạt bay mất nay còn dấu chắp vá, đó có
thể là thanh gươm gãy, chú voi gãy ngà, gãy vòi.v.v. Vậy nhưng gương mặt của tất
cả vẫn như đang nở nụ cười hiền từ, như tha thứ cho những kẻ đã gây nên cảnh
bom đạn tang thương, như khuyên nhủ con người hãy tránh xa chiến tranh, hướng đến
một tương lai chan hoà tình nhân ái.
Khi đọc những tài liệu
về một dòng sông, chúng ta thường bắt gặp hai từ : tả ngạn và hữu ngạn. Tả là
bên trái, đối lập với bên phải. Con trên một dòng sông, tả ngạn là bờ sông bên
phía tay trái, ngược lại với bên phải -hữu ngạn của con sông. Góc nhìn và cách gọi này theo hướng dòng nước
chảy từ nguồn xuống. Phải chăng bắt đầu từ một quan niệm có tính chất luân lý :
Tất cả đều bắt đầu từ nguồn cội !? Theo ranh giới địa lý hiện nay thì hầu như
toàn bộ huyện Trần Đề nằm ở tả ngạn sông Mỹ Thanh.
Sách Dư địa chí Sóc Trăng năm 1904, trong phần Sông Rạch tự
nhiên có đoạn viết : ‘’Miền hạ lưu sông Mỹ Thanh có hai con rạch khá quan trọng
chảy vào, đó là rạch Tầm Vu thông sang Ba Xuyên ở phía trên và rạch Tổng Cán
chảy từ nam lên bắc trên độ dài 15km. Còn có rạch Gòi và rạch Cô Ảo? chảy vào
khoảng giữa cửa sông Mỹ Thanh’’.
Tấm bản đồ cũ
và...ông Tà Mơn
Chuyến phiêu du khám phá vùng đất tả ngạn Mỹ Thanh của chúng
tôi bắt đầu từ con rạch Tổng Cán. Dựa trên tấm bản đồ được vẽ vào năm 1891 thì
đây là một con rạch khá lớn. Địa danh ghi trên tấm bản đồ này ghi theo phiên âm
là Tong cane cùng một điểm tròn đánh dấu vị trí của khu dân cư...Dùng bản đồ cũ
có cái lợi là chúng tôi có thể dễ dàng so sánh và cảm nhận được sự thay đổi của
những vùng đất mà chúng ta đã đặt chân đến với những đổi thay của hiện tại so
với thời điểm mà tấm bản đồ này được lập.
Điều thú vị đầu tiên mà chúng tôi nhận thấy ở đây là ở tấm
biển tên chiếc cầu bắc qua đầu con rạch đề tên là cầu Trà Mơn? Trong khi với
người địa phương thì lại gọi là rạch Tà Mơn. Còn ở Dư địa chí Sóc Trăng năm
1904 và trên cả bản đồ in cùng năm lại không hề ghi nhận những địa danh này?
Lời giải đáp đã có ngay từ vị thượng toạ trụ trì ngôi chùa Sê rây Ta Mơn cổ
kính nằm ngay đầu con rạch. Thượng toạ Trần Văn Tha (th.s Phật học) bắt đầu
bằng câu chuyện cổ tích về 3 anh em đã có công khai phá vùng đất này. Người anh
lớn có tên là Pích, người em có tên là Nôn và người em út có tên là Mơn. Mỗi
người bỏ công sức khai phá một vùng đất hoang, tạo lập nên 3 vùng đất mà những
địa danh vẫn còn gắn liền với tên của họ cho đến tận ngày nay.
-Trong 3 anh em thì ông Mơn không có con cái nên sau khi
mất, ông đã hiến toàn bộ đất đai của ông cho bổn sóc để dựng nên ngôi chùa này.
Chính để nhớ công ơn của người đã khai phá đất nên bà con Kh’mer ở đây dùng tên
ông để gọi tên ngôi chùa. Vì ngôi chùa nằm ngay trên con rạch nên dân gian vẫn
dùng luôn tên này để gọi con rạch. Ngày trước thực ra vùng đất này rất thấp,
nhiều lung bàu...
Như vậy có thể tạm khẳng định rằng : con rạch mà người dân
nơi đây vẫn quen gọi là rạch Tà Mơn có tên chữ trên bản đồ hành chính là rạch
Tổng Cán !? Ngày trước, con rạch như một ranh giới tự nhiên phân chia rõ rệt
hai vùng đất : một bên là phèn mặn nặng cùng với những cánh rừng thấp ngập nước
- một bên là những vùng đất thuộc.
...đến ‘’Thần nông
lắt’’ ở Liêu Tú
Ngắm những cánh đồng dọc theo hai bờ con rạch Tổng Cán lúa
đang lên xanh hẳn ít ai biết rằng cũng chỉ mới gần đây thôi – vào những năm 80
của thế kỷ trước, chuyện làm ra hạt lúa của nhà nông nơi đây không phải là dễ.
Đồng Tổng Cán, giồng Chac ngày xưa vốn là đồng cầm trâu, nhiễm phèn, mặn
nặng...vốn chỉ có cỏ Năn là chủ yếu, cánh đồng chỉ làm được 1 vụ lúa mùa nhờ
nước trời là chính. Qua quá trình tìm tòi của mình, vị thượng toạ trụ trì chùa
Sê rây Ta Mơn cũng cung cấp cho chúng tôi một thông tin khá thú vị về một kinh
nghiệm sản xuất của cư dân nơi đây khi xưa là : ‘’Muốn xuống giống, bắt đầu một
vụ lúa chính thức thì bà con mình luôn để xem lá cây Giá đã xuống màu đỏ rực
chưa. Nếu là cây giá xuống màu đồng loạt thì có thể yên tâm xuống giống vì lúc
này mùa mưa đã chính thức bắt đầu, ít phải lo lắng vì hạn bà chằng’’.
Làm lúa ngày xưa cực khổ là vậy nhưng vì đồng rộng mênh
mông, lúa làm khi ấy ‘’lấy diện tích để bù năng suất’’ nên nhà nào cũng không
phải lo lắng nhiều chuyện thiếu lúa, thiếu gạo...Còn thức ăn thì cá, tép dưới
sông lúc nào cũng sẵn nên khỏi phải lo.
Ông Đinh Thiên Cần - Nguyên Bí thư xã Liêu Tú những 80 của
thế kỷ XX nhớ lại một thời bắt đầu chuyển qua làm lúa tăng vụ ở xứ này :
-Những năm đó lúa ở vùng này làm chỉ cần 14-15 giạ là kể như
trúng rồi đó. Vậy mà năm 82-83 tụi tui làm ‘’thần nông lắt’’ ...tính như bây
giờ phải trên 4 tấn. Giống gì hả ? Ai biết là giống gì..chỉ biết nó là lúa thần
nông, rồi được mấy nhà nông đi ‘’lắt’’ từng bông, từng bông về làm giống. Chính
từ cái ‘’thần nông lắt’’ này mà phong trào thuỷ lợi đê làm lúa tăng vụ ở vùng
này phát triển mạnh.
Mùa lúa trên đồng Liêu Tú (ảnh chụp tháng 4 năm 2011)
Những đồng tiền cổ ở Tổng Cán...
Ở gần cuối con rạch là một khu dân cư khá sầm uất – đó chính
là ấp Tổng Cán. Tổng Cán nằm trên một con giồng và tên dân giã mà người vùng
này vẫn gọi là xóm Phố với phố Trên, Phố giữa và phố dưới. Hẳn đây là một khu
dân cư được hình thành từ khá sớm trong quá trình khai phá vùng đất này vì hôm
nay, chúng tôi tìm đến chú Tám Sển (Quách Văn Sển (65 tuổi)) - một cư dân cố
cựu ở vùng này và cũng là người đã đào được 1 hũ tiền cổ cũng ở trên con giồng
này, đoạn giồng cạnh bên Long Thuyền Tự. Hũ tiền đựng những xâu tiền có niên
hiệu Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Câu chuyện mà chú Tám kể đã giúp chúng
tôi hình dung rõ nét hơn một khung cảnh đặc thù của vùng tả ngạn Mỹ Thanh thời
mà người xưa bắt đầu đến khai phá đất, lập làng...
-Hồi xưa lúc tui còn nhỏ xíu thì con đường chạy trên con
giồng này không nằm ở đây. Nó nằm chệch ra mé ngoài một chút. Dọc theo con
đường lúc đó tui đi học ở trường làng thì cứkhoảng năm chục-một trăm mét là có một cây xoài lớn mà mấy lão tiền bối
trồng để người qua lại có bóng mát nghỉ chân. Vùng này hồi đó nghe nói có cọp
nhưng tới thời của tui..những năm 40 đó...thì tui hết thấy. Nhưng heo rừng và
khỉ thì tui gặp hoài.
Thêm chú thích
...và con rạch của
hoa sen
Rạch Tà Mơn vào những năm 2004-2006 có lẽ là một trong những
cảnh đẹp của làng quê Sóc Trăng thanh bình. Xem lại những bứcảnh chụp tại rạch Tà Mơn vào đầu năm 2006 mà
tôi đã có dịp đi cùng nhóm bạn đã khiến nhiều người ngây ngất. Con rạch với bạt
ngàn hoa sen chen lẫn các rặng dừa, bần, dừa nước khiến cho phong cảnh ở đây
nên thơ vô cùng. Vậy nhưng ở thời điểm mà chúng tôi ghi những thước phim này
thì thật tiếc, con rạch vừa được nạo vét trước đó hơn 2 tháng nên những bờ sen
chưa thể mọc lại kịp. Chuyến rong ruổi theo con rạch Tổng Cán của chúng để tìm
những đám sen của ngày xưa đã có kết thúc thật thú vị khi gặp dì Trần Thị Mỹ Lệ
(năm Lệ). Qua câu chuyện của chính Dì Lệ và những đám sen hồng ở đầu rạch Tổng
Cán.
-Cũng nhờ sen không đó. Chỉ với vạt sen cặp bờ rạch này với
gần 1 công rưỡi sen ở miếng lung trước nhà mà nuôi 3 đứa con ăn học thành người
đó! Chỉ có ngó sen thôi đó. Đứa lớn bây giờ làm kế toán ở Sóc Trăng, thằng con
trai thứ 2 đang học năm tư đại học, còn nhỏ út năm nay cũng thi đại học.
-Nhắm em nó thì đậu không hả Dì Năm ? Tôi hỏi :
-Chưa có kết quả nhưng năm học rồi là học sinh giỏi của
trường Lịch Hội Thượng à nghen !
Quanh chuyện cây sen, ngó sen, củ sen...Dì Lệ còn hào hứng
kể cùng tôi chuyện từng là ‘’người mẫu chụp hình’’ với hoa sen bên con rạch
này. Quãng năm 2004-2005, có 3 ông ‘’chụp hình’’ mang một mớ áo dài vô đây nhờ
Dì Lệ chèo xuồng, hái sen...ôi đủ thứ hết để chụp hình. Tiếc là những tấm ảnh
ấy các con của Dì Lệ đã cất hết ở đâu đó nên tôi không được chiêm ngưỡng chúng.
Đến giờ này thì
Dì Năm Lệ chẳng còn nhớ nổi tên của 3 ông thợ ‘’chụp hình’’ vì thời gian đã non
cả chục năm rồi còn gì ? Nhưng tôi tin chắc một điều rằng khi ấy hẳn Dì Lệ sắc
sảo lắm và những đoá sen trải dài dọc theo rạch Tà Mơn đã tạo nên một khung
cảnh nên thơ lắm !? Nếu không vậy thì làm gì có chuyện những nghệ sĩ nhiếp ảnh
phải lặn lội xuống tận đây để sáng tác chứ ?
Những tấm ảnh rạch Tà Mơn vào năm 2006 (ảnh: Khoa Nam - www.soctrang-online.net)
Từ câu chuỵện mà chú Sáu Tòng đã kể lại cùng chúng tôi ở
Lăng Ông Mỹ Thanh, chúng tôi quyết định phải đến thăm Giếng Ngự, tương truyền
đây là giếng nước do chính Chúa Nguyễn Ánh dùng gươm đào tìm mạch nước nước
ngầm khi bị dồn đến đường cùng.
Giếng ngự, Mộ Hoàng Cô
Huyền sử của vùng đất này kể rằng : Chúa Nguyễn Ánh thời còn
“ba chìm bảy nổi” đã cùng đoàn tùy tùng nhiều lần phải vào Nam để tìm sinh
lộ. Trong một lần buộc phải lui ra phía biển hòng tìm đường ra Côn Lôn, Phú
Quốc. Khi cả đoàn vừa đến được cửa sông Mỹ Thanh thì hết lương thực và nước
uống. Cả vùng rừng rậm, những nổng cát chạy dài...mùa khô chỉ toàn là nước mặn.
Chống gươm trên bãi, ngửa mặt lên trời chúa buông lời cảm thán: “Nếu khí số nhà
Nguyễn chưa tận thì xin trời hãy cho chúng tôi một giếng nước ngọt”.
Rồi Chúa dùng thanh gươm mang theo bên mình để đào vào lòng
bãi cát. Lạ lùng thay, nước ngọt đã rịn ra từ lòng đất và cứ thế chảy mãi, cứu
sống cả đoàn người. Cái giếng nước ấy người dân vùng này gọi là Giếng Ngự. Những
năm trước và cho đến mãi gần đây, giếng nước này vẫn là giếng nước ngọt duy
nhất cung cấp nước ngọt cho cư dân vùng giồng Mù U và xóm chài Mỹ Thanh, xóm
phủ Yết ở cách đó hơn 1km. Bên cái giếng bi giờ đã được mở rộng, chú Bảy Linh
nói cùng tôi :
-Hồi trước thì cái giếng này ngọt quanh năm. Coi như là mãn
mùa....nhưng vài năm gần đây xung quanh có nhiều người làm lô nuôi tôm cả trong
cả ngoài con giồng này nên coi bộ có mọi vô nhiều. Với lại cái nổng cát xưa giờ
cũng gần hết nên mùa nắng nước mặn cũng lừng vô giếng chút ít.
Chú Sáu Tòng thì hào hứng nhắc chuyện xưa : -Hồi nhỏ tui
cũng không ít lần lén lội xuống cái giếng này để ra mấy cái miệng giếng ! Hồi
đó ít nhất ở dưới có 3 miệng nước đẩy nước ngọt lên...mát lạnh cả chân.
Tôi hỏi : “Vậy là hồi xưa chỉ cần qua giếng Ngự là đã ra tới
biển” ? Ừ ! Vừa phụp xuống qua giồng Mù u là đã nhìn thấy biển. Biển ở kế bên
chớ không phải như bây giờ rừng đã phủ bít hết rồi.
Cũng theo lời truyền khẩu qua nhiều thế hệ ở vùng này thì
trong đoàn người theo Nguyễn Ánh chạy nạn có một đoàn tuỳ tùng, gồm cả vương
tôn, phi tần, võ tướng. Do giông bão nên một trong những chiếc thuyền này trôi
giạt vào cửa sông Mỹ Thanh. Trên chiếc thuyền có một vị võ tướng, một vài quân
lính theo hộ vệ công chúa Mỹ Thanh cùng một người cô của chúa Nguyễn Ánh. Nhóm
người này dừng lại ở đây, một đồn luỹ cũng được thiết lập ở nơi đây với dấu
tích là địa danh Giồng Đồn. Đây chính là khu vực ngay dưới chân cầu Mỹ Thanh ở
phía Vĩnh Châu. Tiếc rằng theo dòi bồi-lở của dòng sông, những tảng đá hộc, đá
ong...những mảnh vỡ của tô, dĩa, chén.v.v.đã theo dòng thời gian mà trôi theo
dòng chảy của dòng Mỹ Thanh !? Duy nhất chỉ còn lưu lại dấu tích là cái địa
danh «Giồng đồn » mà cư dân ở đây ai
cũng rành.
Lại kể tiếp chuyện xưa ! Do không hợp phong thổ lại ăn uống
thiếu thốn nên công chúa Mỹ Thanh, cùng người cô của Nguyễn Ánh, rồi cả viên võ
tướng cũng lần lượt mắc bạo bệnh rồi mất và được chôn cất tại đây..
Khi binh Tây Sơn kéo đến truy kích khiến đoàn người buộc
phải bôn tẩu. Ngôi mộ của vị công nương này được giao cho một người Hoa tên là
Yết trông nom. Đến khi thống nhất được giang san, lên ngôi vua với Đế hiệu Gia
Long, nhớ nghĩa xưa, nhà vua đã ban thưởng cho chú Yết rất hậu, phong cho làm
tri phủ (tri phủ hàm), được quyền thu hưởng hoa lợi từ tất cả các cơ sở đánh cá
suốt dọc dài theo bãi biển, tính từ vàm Mỹ Thanh ra đến cửa biển. Tên của Phủ
Yết còn được đặt cho dải giồng cát nơi chú Yết đã ở lúc sinh tiền. Giồng cát
này ngày nay vẫn còn nhưng đã lọt thỏm vào giữa dải rừng ngập mặn Mỹ Thanh.
Ngôi mộ của vị công nương xấu số cũng được xây dựng lại.
Ngày nay, dấu tích mộ Hoàng Cô vẫn còn ở Xâm Pha, hàng năm vẫn có khá đông
người đến viếng bái vào tiết Thanh Minh. Chỉ tiếc rằng câu trả lời cho câu hỏi:
Ai là người thât sự nằm dưới nấm mộ kia thì vẫn chưa có được lời giải đáp. Dòng
thời gian vô tình vẫn hàng ngày tiếp tục bào mòn đi dấu tích của ngôi mộ cổ.
Chúng tôi đã có dịp trao đổi cùng Tiến sĩ sử học Mai Thanh
Sơn - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
quanh những truyền thuyết này. Ông khẳng định:
-Những câu chuyện về truyền thuyết luôn ẩn chứa những gì rất
bí hiểm nhưng cũng lại rất đời thường. Nó đời thường ở chỗ..nó luôn có tác dụng
rất lớn đối với cộng đồng cư dân tại chỗ. Bởi vì truyền thuyết luôn là những
câu chuyện đẹp. Nó mang lại cho người ta niềm tự hào, thể hiện lòng tự trọng,
mang lại cho cộng đồng cư dân nơi ấy một niềm tin nhấ định. Và trên hết, truyền
thuyết có tính cấu kết cộng đồng rất lớn. Tôi hình dung câu chuyện ở Mỹ Thanh,
Vĩnh Châu hay cả ở những vùng đất khác cũng thế thôi ! Nó đều có những lý do
nhất định để cho những truyền thuyết nảy nở và phát triển và có tác động lại
cộng đồng. Có thể nói tác động lớn nhất làm làm giàu thêm vốn văn hoá cho người
dây. Đây là điều không thể phủ nhận. Tác dụng thứ hai là với những truyền
thuyết như thế thì người dân tự xây dựng nên một bề giày truyền thống-cố kết họ
lại với nhau. Câu chuyện về Giếng Ngự, mộ Hoàng cô...có thể có ai đó nói rằng
đó không phải là Giếng Ngự ? Nó chỉ là một cái giếng dân gian mà ai đó huyền
thoại nó lên ? Chuyện đó cũng chẳng sao cả nếu như người dân ở đây cứ tin...và
nó làm cho người ở đây tự trọng hơn, tự hào hơn đối với quê hương.
Một câu hỏi khác cũng khá thú vị cho những nhà sử học là
trong quá trình ghi hình những thước phim này, chúng tôi được biết thêm một
ngôi mộ cổ khác, nằm cách mộ Hoàng Cô khoảng gần 1 km tính theo đường chim bay.
Ngôi mộ này có quy mô nhỏ hơn mộ Hoàng Cô nhưng còn khá nguyên vẹn, chỉ tiếc là
đá ong trong quá trình phong hoá đã hoàn toàn không còn giữ lại được bất kỳ nét
chữ nào trên bia mộ còn khá nguyên vẹn, khiến cho việc truy tìm tung tích của
người nằm dưới ngôi mộ này trở nên cực kỳ khó khăn đối với những người lãng du
như chúng tôi. Chúng tôi cũng được biết thêm rằng, cả hai ngôi mộ cổ này đều đã
là mục tiêu của bọn đào mộ trộm tìm báu vật vào những năm 70 của thế kỷ XX. Đây
phải chăng là nguyên nhân khiến cho mộ Hoàng Cô đã bị tàn phá?
Chú Lâm Tấn
Quang (71 tuổi) ở ấp Huỳnh Kỳ, xã Vĩnh Hải vẫn nhớ như in về bọn ‘’đào mộ
trộm’’ năm nào và đây cũng là câu chuyện mà nhiều người dân ở vùng này rành rẽ
đến cả tên người “cầm đầu” năm đó:
- Năm đó giải phóng đâu 1-2 năm rồi à ! Đêm đó cũng cỡ 11-
12 giờ đêm. Tui đang nằm trong nhà thì nghe tiếng đào đất hâm hịch..hậm
hịch..Tui ra thấy có tới 4 người lận. Tui hỏi : mấy ông làm gì đây ?Mấy ông
đàolàm gì ? thì mấy ổng liên rủ mình đào đồ, kiếm đồ chia ! Tui nói hông ! mấy
ông đào thì tui hổng cản nhưng mà cái chuyện này theo hiểu biết của tui thì cái
mộ này sau nhà nước cũng sẽ tầm thôi! Giờ mấy ông muốn đào thì mấy ông làm biên
bản, ký tên vô đó rồi mấy ông muốn làm gì thì làm. Đăng sau này nhà nước có
xuống sưu tra, kiếm hỏi ...mộ này ai đào thì tui đưa biên bản này ra ! Tới đó
thì mấy ổng hổng dám đào luôn và đi luôn từ đó đến giờ. Hàng năm, tui vẫn tảo
mộ, thanhminh cho người ta. Mộ nằm trên
đất của mình mà.
Phước Hải An Tự và chuyện con cọp cuối cùng ở Vĩnh Châu
Đến vùng đất này, thiết nghĩ cũng cần đến thăm Phước Hải An
Tự, một ngôi chùa Việt cổ ở giồng Vàm Sát xưa, tức là khu vực xã Lạc Hoà ngày
nay. Đến đây, ta sẽ được nghe câu chuyện về con cọp cuối cùng ở Giồng Sát, xứ
Vĩnh Châu, về một thời khó khăn, cực nhọc của những người khai phá vùng đất
mới.
Tính đến nay, Phước Hải An Tự đã trải hơn 160 năm với 6 đời
trụ trì. Đây có thể xem là một ngôi chùa do người Việt lập nên có niên đại lâu
đời nhất ở vùng này. Ngay từ khi mới lập chùa cho đến nay, các vị sự trụ trì
chùa đã cho trồng rất nhiều cây sao, vừa để tạo bóng mát, vừa để lấy gỗ xây
dựng.
Khi xưa, dưới những tán lá sao rợp mát, mái ngói rêu phong
của Hải Phước An Tự là khung cảnh cổ kính, nên thơ. Hiện nay, ngôi chùa dù đang
được xây dựng lại nhưng khung cảnh vẫn không khác xưa là mấy. Có chăng chỉ là
toà tháp vươn cao khỏi những tán lá sao. Lên đỉnh tháp, cả một vùng rộng lớn
của Xâm Pha, Giồng Mù U, Hồ Bể đều nằm trong tầm mắt. Biển vẫn thật gần.
Chuyện về cặp tượng ông Cọp được đặt ở toà tháp này cũng đã
cho chúng ta ngày hôm nay biết được những gian khó của người mở đất ngày
xưa.Rồi chuyện kể về con cọp cuối cùng
ở Giồng Sát đến nay vẫn được lưu truyền qua một bài vè con Cọp khá ngộ nghĩnh
mà hiện nay, chỉ còn vài người cao niên ở xứ này còn nhớ láng máng. Đó là vào thời điểm
năm 1927, khi vùng này vẫn còn hoang vu với những rải rừng sác rậm rạp. Những
chuyện xưa, tích cũ ở xứ Vàm Sát xưa thì nay chắc chỉ có ông Triệu Vinh Quang
(73 tuổi) là còn nhớkhá nhiều. Dưới tán
vườn cây sao cổ thụ ông vui vẻ đọc để tôi chép lại bài vè Con Cọp* và chuyện
ông Tà Sết. Theo đó thì vùng này còn khá nhiều rắn rít, ở mé ven biển Vĩnh Hải
xưa có một người tên là Sết có tài bắt rắn và trị rắn cắn. Người ta nói rằng
cái lưỡi của ông Sết đen từ ngoài vào tới trong. Khi bị rắn độc cắn, ông chỉ
cần lè lưỡi liếm vào vết rắn cắnlà nọc
độc tiêu ngay. Chú Quang kể rằng chính ông Sết đã qua khu vực Chùa Hải Phước để
bắt 1 con rắn Hổ Mây lớn mà theo người trước kể lại thì ông chỉ ôm được khúc
đuôi con rắn này mang về vì con rắn đã chui kịp vào trong một hốc cây Lâm Vồ
lớn nên ông Sết ôm đuôi kéo ra không nổi bèn chặt lấy khúc đuôi. Còn rắn Hổ Mây
ngày sau bò ra chết ngoài trảng. Nó lớn tới mức phải 5-6 người khiêng mới nổi.
Địa danh Trà Sết chính là tên của ông.
Dòng thời gian như "bóng câu qua cửa sổ’’. Mới đó thôi
nhưng đã có câu chuyện vụt trở thành quá khứ, nhưng vẫn có những câu chuyện vẫn
còn như nguyên vẹn trong tâm thức của nhiều người qua những câu ca dao, bài vè
truyền khẩu. Đó chính là sức sống mãnh liệt của dòng văn hoá dân gian khi ghi
lại nhưng dấu ấn về con người, về quê hương, xứ sở. Quanh vấn đề này, T.S Mai
Thanh Sơn chia sẻ cùng tôi :
-Người ta sống không chỉ bằng ăn-uống, mặc-ở, đi lại mà còn
sống vì niềm tin nữa. Khi niềm tin ấy nhân sức mạnh của con người lên thì rõ
ràng là nó đã trở thành sức mạnh vật chất. Giúp con người vượt qua những gian
khó. Tôi nhận thấy rằng ở vùng cửa sông Mỹ Thanh và cả những vùng cửa sông tây
Nam Bộ trước đây vốn là vùng rừng ngập mặn....rừng liên rừng vốn gắn với câu "rừng thi6ng nước độc" mà. Có rất nhiều câu chuyện, truyền thuyết về ông Hổ,
cá sâu, rắn rết ở những khu rừng ấy với bao bí hiểm, nhưng cũng chính là nơi
cung cấp nguồn sống cho cư dân. Thông thường, người ta thường linh thiêng hoá
nó! Và để chế ngự được những thế lực vừa hư ảo, vừa có thực đó thì người ta
cũng phải tìm được sức mạnh tinh thần của chính mình. Và đôi khi những truyền thuyết,
những huyền thoại được xây dựng nên từ đó. Và điều quan trọng là nhờ nó mà
người ta trở nên mạnh mẽ hơn trước thiên nhiên hay ít nhất...cũng có thể thích
ứng được với thiên nhiên, từ đó mới duy trì được cuộc sống của cộng đồng và tồn
tại cho đến bây giờ. Truyền thuyết bao giờ cũng được xây dựng trên nền tảng của
sự thật và nếu như nó không có lý do thực tế thì nó cũng vẫn tồn tại với lý do
về mặt tinh thần. Làm sao đó để tạo được sức mạnh giúp con người vượt qua những
thời điểm khó khăn nhất.
Qua chuyến phiêu du này chúng tôi nghiệm ra rằng : có đi mới
hiểu, có đi mới thấy... để rồi mới thấy yêu quê hương, yêu đất nước mình hơn. Để
thấy quê mình quá đẹp, quá đáng yêu. Kể sao cho hết chuyện? Mỹ Thanh mênh mang
vẫn còn ẩn dấu bao điều kỳ thú đang chờ người khám phá.
Hãy đi để thấy rằng mỗi con sông, mỗi tên làng, tên
đất đều gắn liền với những huyền sử hào hùng của những lớp người xưa đi mở cõi.
*Vè con Cọp ở làng
Vàm Sát
Trải xem trong tổng Thạnh Hưng
Tại làng Vàm Sát có thôn Lạc Hoà
Trước là có phố có nhà
Lại thêm chùa phật, chùa bà rất linh
Tổng, làng dân sự an ninh
Cao Mên, Chệt Khách thái bình an cư
Kể từ năm tỵ tháng tư
Tại chùa Hải Phước ông sư trên chùa
Đang khi gõ mõ vẽ bùa
Nghe la có
cọp chạy ùa ra coi
Kẻ thì sách
mác cầm roi
Ông sư miệng
niệm nam mô
Ngài là ông
chúa đừng hô um súm
....
Có chệt Mã
Xiêm
Tay cầm cu
liêm
Giựt gài
móng lay..
Sơn lâm nổi
giận trở quày
Vố cho một
vố thẹo trầy huyên thuyên
Mã xiêm
thất vía ngả nghiêng
Anh em xúm
lại mà khiêng Xiêm về
Tưởng là
xiêm đã có nghề
Hay đâu
xiêm lại nhà quê quá đời.
Vợ con la
khóc kêu trời
Chuyến này
mày chết hết đời Xiêm ơi
Bảy Cụt
chưa rõ khúc nôi
Còn đang
uống rượu loi thoi nhậm nhầy
Nghe la có
cọp tới đây
Mau mau
bước xuống mời ngài đi tu
Chấp tay
cúi lạy chổng khu
Xin ông
thương lão đạo tu bạn cùng
Ai ngờ đến
lúc cơn khùng
Lại gần ông
cọp anh hùng mới khen
Tưởng là
ông cọp làm quen
Hayđâu ông lại chen vô cấu quào
Bảy Cụt
hoảng hốt té nhào
…..
(Đến đây
thì chú Quang đã quên mất những đoạn sau nhưng chú khẳng định là bài vè cẫn còn
dài. Chú hứa sẽ cố gắng lần nhớ và sưu tầm lại đầy đủ để tôi chép lại).