Thứ Hai, 6 tháng 5, 2013

Đình Phú Hữu - một thiết chế cần được khôi phục và bảo tồn trong không gian Văn hoá vùng Đại Ngãi

Nói đến một trong những khu vực tiềm năng về mặt kinh tế ở phía Nam sông Hậu thì Đại Ngãi, Long Đức là những khu vực được nhiều người biết đến và kì vọng. Đại Ngãi thì đã nổi tiếng với cái tên Vàm Tấn-một thương cảng lớn từ thế kỉ XVII, Long Đức mới đây được xây nhà máy nhiệt điện đầu tiên của tỉnh Sóc Trăng. Tuy nhiên, nếu nói về văn hoá và các giá trị của một vùng đất còn giữ được nhiều đặc điểm của quá trình khai phá đất Sóc Trăng thì phải nhắc đến Phú Hữu, một thôn đã được ghi danh trong đợt đạc điền của triều Nguyễn vào đầu thế kỉ XIX, và hiện nay là xã Phú Hữu, huyện Long Phú.
Đình làng “ngăn tàu giặc” và cặp câu đối…
Làng Phú Hữu khi xưa được lập nên bởi những cư dân miền trung vào miền Nam khai khẩn, họ có thể là những người lính hay những người nông dân theo chế độ đồn điền của triều Nguyễn đến để khai hoang, lập ấp. Phú Hữu xưa là một thôn lớn, có đình làng, dân cư trù phú, nhiều gia đình có truyền thống về khoa cử và học hành đỗ đạt. Theo Địa chí tỉnh Sóc Trăng, năm 1830, sau một thời gian khai khẩn, Sóc Trăng lập được 1 tổng (Định Khánh) và 11 thôn. Trong đó, thôn Phú Hữu thuộc huyện Vĩnh Định, phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Địa bàn thôn Phú Hữu xưa được miêu tả bao gồm cả Long Đức ngày nay chạy theo con sông Hậu và giáp với các thôn: Châu Khánh, Đại Hữu. Những “dấu tích” vẫn còn được lưu giữ khá nguyên vẹn ở đình làng Phú Hữu. Đó là nội dung cặp câu đối được chạm trên gỗ, thếp vàng ở long trụ đình Phú Hữu:
Phú bảo nhất thôn đại tiểu đồng khâm thánh đức
Hữu đà tứ ấp nông thương cộng ngưỡng thần ân
Tạm dịch:
Giữ lấy sự giàu có của một làng, trẻ già cùng kính trông thánh đức
Kéo lại sự trù phú của bốn ấp, nông dân lẫn thương nhân cùng kính trọng thần ân.
Long trụ và câu đối ở đình làng Phú Hữu - ảnh Cao Long.
Có thể đi t đường Tnh 933 (đoạn ở xã Tân Thnh) vào để đến đình Phú Hu; hoặc t cu Đại Ngãi r phi theo đường mới mở đi về Tân Thạnh, t khu đin lc Long Đức đi đường thuỷ theo lối sông Đại Ngãi cũng có thể đến được... Khu đình chính chia làm hai phn: Phn ngoài là khu làm vic ca hi đồng làng-xã, có kê bàn ghế, ch ngi để tiếp khách. Kết cu theo li t tr, chính gia có 4 cây ct tròn (02 cây phía trong chm rng, 02 cây phía ngoài hình tròn, không chm nhưng có viết hai câu đối). Gian trong (gian chính) có kết cu gn ging vi khu ngoài nhưng có vách - đây chính là gian th thần. Gian chính cũng được dựng theo lối “Tứ trụ”, đỡ giàn kèo bởi bốn cột gỗ quý có chạm nổi hình rồng (long trụ) và kèm bốn câu đối. Theo những vị cao niên trong Ban Quý tế, bốn cột gỗ căm xe này có từ lúc cất ngôi đình đầu tiên. Sau đó, trong những ngày “Tiêu thổ kháng chiến” chống Pháp (1945), dân làng dỡ ngôi đình, toàn bộ phần gỗ và đá, gạch kê chân cột của đình được mang đi đắp cảng ngăn tàu giặc ngay đầu vàm Phú Hữu, đến nay vẫn còn dấu tích cây gỗ và gạch có thể nhìn thấy bằng mắt thường khi nước ròng. 4 cây long trụ được đem giấu và dùng lại khi dựng lại ngôi đình.
Phía trong cùng là nơi th Thành Hoàng bn cnh vi ch “Thn” rt ln bày trong 01 trang thờ riêng, phía dưới ch “thn” là hp ph khăn điu đựng sc phong Thành Hoàng. Hai bên là bàn th T ban và Hu ban, hiu là các v h tr thn Thành Hoàng trong cai qun vùng đất. Các câu đối ở bàn thờ Tả ban và Hữu ban đều đã được phiên âm Hán Việt và viết vào mảnh giấy dán bên cạnh. Cách làm này là để cho những ai có quan tâm có thể đọc được dù không hiểu lắm chữ Hán. 

…thông điệp của người xưa
Đáng lưu ý nhất trong gian th thn là 02 bàn th kế tiếp nhau cùng đề 4 ch “Binh Đinh Nhân Đin”. Bàn thờ thứ nhất có 02 câu đối và phía trên 4 chữ ấy có đề “Liệt Sĩ Linh Đường”. Đây có thể hiểu là bàn thờ những anh hùng liệt sĩ, có công đối việc bảo vệ xóm làng, một tập tục phổ biến trong các đình ở Nam bộ, nhất là sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Bàn thờ thứ 2 có 4 câu đối, không có chữ phía trên. Riêng các bàn thờ “Binh Đinh Nhân Điền” này không có người viết phiên âm hán Việt.
Ông Nguyễn Văn Sơn, trưởng ban hội đồng; ông Nguyễn Văn Ẩn, phó chánh bái đang làm lễ thỉnh sắc - ảnh Cao Long.
Ở phần lớn những ngôi đình khác thì ngoài dòng chữ “Tiền hiền-Hậu hiền” là bài vị thì ở đây lại ghi rõ 4 chữ đã nêu ở trên ở cả 2 bàn thờ!? Đây phải chăng chính là mấu chốt để trả lời cho câu hỏi: “Ai là những người đầu tiên khái phá vùng đất này và lập nên làng Phú Hữu”!? Phải chăng, những người đầu tiên có công khai phá vùng đất này chính là những “Binh Đinh” được triều đình chu cấp lương thực, dụng cụ sản xuất và cử đến khẩn hoang vùng đất này theo “cơ chế đồn điền” được áp dụng đầu tiên vào thời Minh Mạng và sau này, được vua Tự Đức tiếp tục áp dụng để khai phá, mở rộng và bảo vệ vùng đất Nam bộ trước nguy cơ xâm lược của giặc Pháp!? Cư dân của những đồn điền này bình thường thì khẩn đất, làm nông, nhưng khi triều đình cần hoặc khi xảy ra “biến cố” thì họ lại trở thành những người lính của triều đình. Ngoài ra, những đồn điền này còn là những cứ điểm quân sự, có chức năng phòng thủ và bảo vệ tại những vùng đất trọng yếu (như vùng cửa sông lớn đi nhiều ngả chẳng hạn…). (Xem thêm: Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng, Choi Byung Wook, NXB Thế Giới; Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam, NXB trẻ).
Đình Phú Hữu-một di tích văn hoá, lịch sử cần được bảo tồn
Ngày 07/3/2013 chúng tôi đến đình Phú Hu. Ông Nguyn Văn Sơn, trưởng Ban Hi đồng; ông Nguyn Văn n, Phó Chánh bái cùng mt s v trong Hi đình cho biết: sc thn ch mang ra trong dp l cúng h đin. Tuy nhiên nhiu năm nay không “cử lễ phơi sắc” na vì việc bảo quản trong chiến tranh gặp nhiều khó khăn và cùng với thời gian, tấm sắc “Vua ban” cho đình Phú Hữu đã mục nát khoảng 1/3 và hiện nay, mỗi lần giở ra, giấy tiếp tục rách. Theo yêu cầu của chúng tôi, một nghi lễ “thỉnh sắc” đã được các vị trong Ban Hội đình tiến hành và chúng tôi đã tận mắt quan sát và chụp ảnh tấm sắc này. Phần chữ trên sắc phong còn lại tương đối rõ địa danh thôn và huyện được sắc phong.
Bản sắc phong hiện còn lưu giữ - ảnh Cao Long.
Chúng tôi cũng phát hiện một số sai sót mà theo chúng tôi cần phải được “sửa lại sớm”! Đó là ở vách bên phải có 02 bàn thờ đề tựa “Giác giác linh” và “Hậu giác linh”. Mỗi bàn đều có các câu đối. Giữa hai bàn thờ là một khung giấy, lộng kiếng, trong đó ghi lại danh sách những bậc tiên hiền và hậu hiền đã có công xây dựng đền. Ở đây, theo các vị trong Ban Quý tế cho biết, khi trùng tu ngôi đình, đã thuê một số người biết chữ Hán (trong đó có vị làm nghề thầy cúng, và một số người Hoa ở thị xã Sóc Trăng) chép lại. Do danh sách được chép trên giấy dó để lâu ngày, chữ bị mất nét nên người chép lại đã nhầm từ chữ “hiền” ()  thành chữ “giác” (), từ đó phiên âm thành “hậu giác dân” và “giác giác linh”, những câu chữ không có nghĩa khi đặt trong khung cảnh đình làng. Đúng ra phải là bàn thờ “tiên hiền” (những người có công khai khẩn, lập làng, xây đình, ...) và “hậu hiền” (những người có công bỏ tiền bạc, sức lực, lo các thủ tục để xin được sắc phong cho làng). Mặt khác, trong danh sách đã nêu cũng phiên âm sai tên của nhiều vị tiền bối ở làng Phú Hữu… Do đó, việc phiên âm và dịch sai ý nghĩa bàn thờ các bậc Tiên hiền và Hậu hiền, tên, chức vị của các vị tiền bối trong Ban Hội đình ở đình làng Phú Hữu xưa cần được cải chính sớm!
Có thể giờ đây, không còn nhiều người đọc được chữ trong sắc phong, nhưng qua hành động tôn kính một tờ sắc phong, vốn có tính chất chứng minh sự có mặt của làng trong sổ bộ của triều đình có thể thấy rằng - vai trò bảo tồn vốn văn hoá trong đình làng rất mạnh mẽ (xem thêm biên khảo: Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam, Sơn Nam, NXB Trẻ). Tín ngưỡng thờ thành hoàng của người Việt hình thành trên cơ sở trân trọng, biết ơn tiền nhân, những người có công với làng, với nước, với dân…tồn tại song song với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Chính vì vậy, nếu phát huy được vai trò của ngôi đình, nhiều vấn đề tưởng như khó lại rất dễ giải quyết đối với chính quyền địa phương (kiện tụng, tranh chấp, truyền bá chính sách, văn hoá thể thao, chuyển giao công nghệ.v.v.).
Dấu ấn và ngày phong sắc vẫn còn rõ nét - ảnh Cao Long.
Trước mắt để bảo tồn giá trị văn hoá và lịch sử của đình Phú Hữu trong không gian văn hoá khu vực Nam sông Hậu, thiết nghĩ cần khôi phục lại nguyên trạng ngôi đình xưa. Hiện bộ “long trụ” vẫn còn, giàn kèo, giàn trò bằng gỗ có thể bổ sung nếu thiếu; số cây gỗ, gạch đá đã dùng để “đắp cảng” ngăn tàu giặc khi xưa vẫn còn ở vàm sông Phú Hữu cần được khai quật và lưu giữ bởi đây chính là những chứng tích một thời hào hùng của quê hương Phú Hữu! Khuôn viên và đất của đình còn rộng, có thể xây thêm sân bóng đá, bóng chuyền ở phía sau đình, kéo dài khu “nhà việc” thành một kiểu như hội trường, đưa thư viện, sách báo vào khu này để con em Phú Hữu có thể đến đây học tập, bà con có thể trao đổi về kinh nghiệm sản xuất...
Tóm lại, thay vì xây một nhà văn hoá như một “hộp bê tông”, ít người tới lui, chúng ta có thể đầu tư mở rộng một ngôi đình, phát huy chức năng tập hợp và cố kết cộng đồng dân cư của ngôi đình làng. Đây cũng là một phương thức để thực sự phát huy vốn văn hoá của tiền nhân.
Để làm được việc đó, sự đầu tư của Nhà nước là không thể thiếu bên cạnh việc đóng góp của người dân Phú Hữu./.
Nhật Huy - Phương Quang