Xuân
Hoà lâu nay vốn nổi danh là một vùng “đất vườn” nức tiếng không chỉ
riêng ở huyện Kế Sách. Bến sông Xuân Hoà cách đây không lâu còn là 1 chợ
nổi bán buôn trái cây nhộn nhịp mỗi khi vô mùa trái chín. Mỗi khi vô
mùa, hàng trăm ghe xuồng ken dày bến sông chờ lên hàng xuôi về các chợ
đầu mối.
Đường
về miệt vườn Xuân Hoà giờ đã dễ đi, dù là ngược từ hướng Kế Sách lên
hay từ tuyến đường Nam sông Hậu rẽ vô! Những mảnh vườn cây ăn trái nối
nhau trải dài dọc theo con đường quê giờ đã lót đal bằng phẳng, ấp liền
ấp. Ven bờ kênh, ẩn hiện dưới tàn lá rợp mát là những căn nhà xinh
xắn…nhà lá, nhà tường đủ cả. Tháng 5, trời nắng như đổ lửa… nhưng trên
con đường làng, lữ khách vẫn thoải mái dạo chơi dưới bóng mát của những
tàn cây rợp mát, thả hồn mình trong tiếng ve mùa hạ.
Miếu Thổ thần và bức ảnh thời… kỹ thuật số
Rong ruổi theo những con kênh, bờ đập ở Xuân Hoà, chúng được nghe 1 câu chuyện vui về những cái miếu thổ thần ở Xuân Hoà. Ngay đầu bờ đập 5 Riềng, dọc theo con rạch Tây Phương là những miếu thờ thổ thần được đặt ở ngay mỗi đầu ranh đất. Thuở trước đất rộng, người khẩn hoang chỉ cần bỏ công sức khai phá… tới chừng cảm thấy mảnh đất của mình đã vừa đủ sức làm thì đánh dấu ranh đất của mình bằng cách cất 1 miếu thổ thần ngay đầu ranh đất. Mọi người tin rằng, vị thổ thần không chỉ làm chứng cho công sức khai khẩn mà còn giúp cho người chủ đất sản xuất trúng mùa, cây trái xanh tươi. Giai thoại về vị thổ thần ở vùng đất này cũng là một giai thoại vui, giản dị và chân tình như tấm lòng của người miệt vườn vậy. Bên ly “trà quạu”, lão nông cố cựu Năm Riềng (Trần Văn Riềng), năm nay đã 69 tuổi ở ấp Hoà Phú vui vẻ giải thích cùng chúng tôi về chuyện tại sao thổ thần chỉ ở đầu doi, đầu bãi chớ không được vô nhà:
- Theo ông bà mình kể lại thì mọi chuyện đều bắt đầu từ ông học trò khó. Lúc còn nghèo chuẩn bị lên kinh ứng thí tay ôm tay xách giỏ qua cầu, vừa đi vừa cạp miếng dưa mà người ta cho. Bước xuống cầu thì lật đật làm sao đó để rớt miếng dưa. Thổ thần khi ấy đang gác cầu liền mắng “Thằng hư! Đã nghèo rớt mà có miếng ăn còn hổng biết giữ”. Chuyến ấy học trò khó thi đậu điểm cao được triều đình bổ về làm quan. Làng liền mở tiệc “Vinh quy bái tổ” cho quan trạng. Trong lúc ăn tiệc quan trạng gắp và làm rớt miếng thịt heo… nhưng miếng thịt chỉ rớt tới ngang lưng thì không rớt xuống nữa? Hoá ra là thổ thần đứng kế bên “Quan trạng làm rớt thì có em đỡ”. Quan trạng bèn mắng thổ thần “Cái thằng này đúng là “chúa nịnh”! Lúc quan còn là “học trò khó” thì hở một chút là nó mắng, chửi… tới chừng làm quan thì đi đâu nó cũng kè kè để “bợ đỡ”. Cái thứ này từ giờ trở đi chỉ cho nó ở đầu doi, đầu bãi chớ dứt khoát hổng cho vô nhà…”….
Câu chuyện vui, pha chút hài nhưng đậm tính nhân văn và chen vào đó là cả một bài học về lẽ sống của người Nam bộ. Dù những chiếc miếu thổ thần chỉ đặt ở đầu doi, đầu bãi nhưng mỗi khi ở nhà có đám tiệc, cúng qoải… gia chủ cũng không bao giờ quên phần của thổ thần. Thổ thần cũng chẳng đòi hỏi gì nhiều… nhà còn khó thì thần ở trong cái miểu tre lá đơn sơ, nhà khá giá thì xây tường thần cũng chịu. Vật phẩm cúng tế thần cũng chẳng đòi hỏi, điều mà thổ thần cần chính là tấm lòng của gia chủ.
Cách
đặt tên, gọi tên những con rạch, bờ đập ở xứ này cũng giản dị, trực
quan, dễ nhớ. Con rạch có tên Tây Phương mới nghe cứ tưởng như gắn liền
với truyền thuyết về con đường thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng - Tôn
Ngộ Không? Nhưng thực ra chẳng phải vậy. Thực ra là khi xưa, ở hai bên
bờ rạch có 2 ông chủ đất tên là Tây và Phương. 2 ông sau này kết thông
gia và con cháu của họ đã góp phần không nhỏ để mở mang vùng đất 2 bên
con rạch này nên cư dân trong vùng lấy tên 2 ông đặt luôn cho con rạch
để dễ nhớ. Còn bây giờ thì bờ đập ở đầu con rạch này được gọi là rạch “5
Riềng” - chính là tên của lão nông Trần Văn Riềng!
Đập 5 Riềng, đầu rạch Tây Phương (ấp Hoà Phú, xã Xuân Hoà) - ảnh Cao Long
Hoá
ra cách đặt tên địa danh ở xứ này cho tới bây giờ vẫn mang đậm dấu ấn
của “ông bà xưa” thời mở đất! Mà có sao đâu? Nó gần gũi, dễ nhớ và thấm
đẫm tình làng nghĩa xóm. Với tôi thì cách đặt tên địa danh này có phần
còn hơn cách lựa chọn “chữ nghĩa cao siêu” nhưng khó hiểu như kiểu ghép
thêm chữ tân, chữ lộc, chữ gì gì đó… với nhau để rồi chỉ có những bậc
“túc nho” ngồi luận chữ với nhau. Qua những câu chuyện từ ông Năm Riềng
kể, chúng tôi cũng biết rằng đất Xuân Hoà trong kháng chiến chống Mỹ
cũng là 1 vùng căn cứ chịu nhiều bom đạn cày xới. Đồn giặc đóng ken dày
để thực hiện thủ đoạn “tát dân ra khỏi vùng căn cứ”. Những đoàn cán bộ
của Khu 8, Khu 9, của tỉnh Sóc Trăng vẫn thường xuyên qua lại vùng này,
nhiều cơ quan đã đóng quân ở đây trong những giai đoạn ác liệt của cuộc
chiến tranh chống Mỹ. Tôi đã gặp lại chị - nghệ sĩ nhiếp ảnh Linh Phượng
và dấu ấn của chồng chị - nghệ sĩ nhiếp ảnh Lý Wày - qua 2 bức ảnh mà
gia đình ông Năm giờ đã lưu giữ như kỷ vật quý của thời chiến.
Ông Năm Riềng đang giới thiệu với tác giả về những tấm ảnh thời kháng chiến.
Những
bức ảnh này được chụp bởi nghệ sĩ nhiếp ảnh Lý Wày vào năm 1971 và chị
Linh Phượng đã trao lại cho gia đình vào năm 2000 trong 1 lần về thăm
lại chiến trường xưa. Bức ảnh thứ nhất - ông Năm khi ấy là cán bộ tuyên
huấn xã Xuân Hoà chụp cùng với Đội Văn công xung kích. Trong bức ảnh này
ông Năm là người đứng thứ 2 tính từ bên trái qua, còn chị Linh Phượng
ngồi ở vị trí thứ 2-tính từ bên phải qua. Bức ảnh thứ 2 ông Năm đứng ở
vị trí bìa trái, còn người đứng ở bìa phải là anh Hai của chú - liệt sĩ
Trần Văn Hội. Chính từ bức ảnh này mà hiện giờ đã có thêm tấm hình 2 anh
em cùng đứng chung nhau trong 1 phong cảnh thật nên thơ, yên bình ở Đà
Lạt. Bức ảnh này được các con của ông thuê thợ ghép lại vào năm 2008,
khi kỹ thuật xử lý ảnh số đã trở nên thịnh hành.
Kinh Cũ Xuân Hoà chảy ra vàm Cái Cau, nơi từng là “chợ nổi Xuân Hoà” - ảnh Cao Long.
Từ Bác vật Lang đến khúc xương cọp, bộ xương voi…
Về Xuân Hoà hôm nay, hẳn không ít người sẽ bất ngờ khi được biết rằng vùng đất này ngày xưa vốn là vùng đất “mê địa” với những vạt rừng tràm, rừng chồi, lau -chấp mọc dày, thi thoảng mới có 1 giải đất giồng nhỏ. Dải đất ven bờ hữu ngạn Hậu Giang mà. Dưới triều vua Thiệu Trị, Xuân Hoà mới chỉ là 1 thôn thuộc tổng Định Khánh, huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang. Được chính thức gọi là làng Xuân Hoà từ ngày 05/01/1876, đổi thuộc hạt Sóc Trăng.
Về Xuân Hoà hôm nay, hẳn không ít người sẽ bất ngờ khi được biết rằng vùng đất này ngày xưa vốn là vùng đất “mê địa” với những vạt rừng tràm, rừng chồi, lau -chấp mọc dày, thi thoảng mới có 1 giải đất giồng nhỏ. Dải đất ven bờ hữu ngạn Hậu Giang mà. Dưới triều vua Thiệu Trị, Xuân Hoà mới chỉ là 1 thôn thuộc tổng Định Khánh, huyện Vĩnh Định, phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang. Được chính thức gọi là làng Xuân Hoà từ ngày 05/01/1876, đổi thuộc hạt Sóc Trăng.
Những cư dân đầu tiên đến khai phá vùng đất này khi ấy vừa phải chiến đấu với muỗi mòng, rắn rít để khẩn hoang, vừa phải canh chừng thú dữ. Những câu chuyện ly kỳ thời mở đất, những chuyện xưa - tích cũ nay cứ như là huyền thoại vẫn còn in đậm trong tâm trí của những bậc cao niên ở xứ này. Cụ Nguyễn Hùng Cường (86 tuổi) cũng ở Hoà Phú hào hứng kể lại cùng chúng tôi câu chuyện dựng nhà sàn trong rừng để khai mở đất. Người lớn đi làm thì rào lại sàn cao để phòng tránh cọp. Con rạch Giồng Đá hình thành là do voi đi. Phần xương của con voi chế hiện vẫn còn lưu giữ ở chùa Gồng Đá.
- Bà nội tui kể rằng thời bà nội tui còn nhỏ thì nhà của ông cố là nhà sàn cất trên cọc tràm lớn, ngoài hàng rào thì cửa nẻo đều làm song chắn để ngăn con nít leo xuống khi người lớn đi ruộng hòng ngăn cọp. Ông bà cố tui khi đó đi ruộng là phải cột bà nội lại ở trong nhà. Mà cất nhà hồi xưa ở xứ này thì cất nhà sàn tì chỉ ước chừng chớ hổng có lấy thước đo. Ông bà mình tin rằng nếu đo bằng thước thì “ông ba mươi” (cọp-PV) ổng biết ổng canh…ổng nhảy lên tới. Còn chuyện Bác vật Lang tới đây đào đồ cổ ở Giồng Đá thì lớp tụi tui còn biết, còn nhớ. Khi đó con rạch Giồng Đá còn nhỏ xíu và cạn xìu. Tàu Tây phải đậu ở ngoài đầu vàm Cái Cau và đi ca-nô vô. Nghe đâu họ đào và lấy được 1 bàn tay phật bằng đá tím, rồi vàng dây, rồi 1 nải chuối bằng vàng?…
Cụ Nguyễn Hùng Cường “Rạch Giồng Đá khi xưa nhỏ xíu mà cạn xìu. Dưới lòng rạch toàn là đá…”.
… và ước nguyện chưa thành của trụ trì Thiên Phước Cổ Tự.
Con rạch Giồng Đá hiện nay đã lớn hơn con rạch ngày trước nhiều vì đã trải qua nhiều lần nạo vét bằng cơ giới. Nằm bên con rạch là Thiên Phước Cổ Tự mà người dân ở đây vẫn quen gọi là chùa Giồng Đá. Chùa được xây dựng trước năm 1880, khai sáng bởi Hoà Thượng Thích Thiên Nhựt và đến nay đã trải qua 6 đời trụ trì. Trải qua 2 thời kỳ kháng chiến giải phóng dân tộc, ngôi chùa này là cơ sở của nhiều cơ quan thuộc Khu 8, Khu 9, đặc biệt là công việc in ấn tài liệu. Vào lúc cao điểm, có ngày các chị, các cô đã xay tới 5-7 giạ bột để phục vụ cho việc in ấn. Tấm huy chương kháng chiến hạng nhất do Chủ tịch nước trao tặng nhà chùa được treo trang trọng đã nói lên tất cả.
Trụ trì Thiên Phước Cổ Tự hiện nay là Hoà thượng Thích Trí Phát. Ông dẫn chúng tôi ra địa điểm mà vào những năm 30 của thế kỷ trước, bác vật Lưu Văn Lang và đoàn khảo sát của Viện Viễn Đông Bác Cổ đã khai quật ở đây. Cho đến bây giờ, chúng tôi vẫn chưa tìm được tài liệu nào mô tả chi tiết về chuyến khảo cổ này nhưng theo các bậc cao niên ở đây kể lại mà Hoà thượng Thích Trí Phát ghi chép lại thì 2 hiện vật quý giá nhất mà họ đã mang đi là 1 bàn tay phật tạc bằng đá tím và 1 chiếc búa được đúc bằng vàng hoặc bằng đồng? Ở ngay địa điểm hố khai quật này, Hoà thượng Thích Trí Phát đã có mở rộng đôi chút. Ông dự định nếu sau này có dịp, sẽ dựng ở đây 1 nhà thuỷ tạ và cũng là điểm để trưng bày những hiện vật xưa, quý hiếm, minh chứng cho 1 thời mở đất gian khó của cha ông thửa mới đến khẩn hoang, lập làng mà nhà chùa còn giữ được.
Hoà thượng Thích Trí Phát và tác giả bên những “hiện vật xưa” còn lưu giữ ở Thiên Phước Cổ Tự.
Chúng tôi càng tin tưởng hơn khi Hoà thượng Trí Phát “hé lộ” đôi chút về kho tàng mà ông đang lưu giữ. Đó là những mảnh xương cọp, gạc nai, xương voi và 2 nồi đất cổ. Những mảnh của bộ xương voi còn giữ lại được là hơn 20 đốt xương sống, xương ống, xương bẹ…do đám trẻ nít ở đây nhặt được và đem đến vào 1 đợt nạo vét rạch Giồng Đá trong những năm 80-90. Mảnh gạc nai vẫn còn nguyên dáng và có vẻ như đã hoá thạch? Còn 1 đốt xương mà Hoà Thượng Trí Phát tin chắc là xương ống trước của “tay cọp”… Ông kể về “cái duyên” của ông với đoạn xương này trong tâm thế thật hứng khởi:
- Trong lúc làm cỏ trong khuôn viên thì thầy gặp 1 bụi cỏ khá lớn mà rễ ăn khá sâu. Mình chặt thì rồi nó cũng lên tiếp nên thôi thì đào rễ nó luôn. Vậy là đụng phải 1 khúc đen đen giống như khúc cây mà hổng phải? Nghi ngờ nên thầy mang nó xuống mé rạch rửa…càng rửa thì càng thấy lạ, càng khẳng định nó là 1 khúc xương. Đem vô cất và phải mất 1 thời gian dài nghiên cứu thì mới ngộ ra được đây là 1 khúc xương cọp bởi đặc thù của 2 lỗ thông nhau ở khớp. 1 dấu chỉ phải có trong bộ xương ống “tay cọp” mà những người nấu cao hổ cốt đã đúc kết.
Hoà thượng Thích Trí Phát giới thiệu khúc xương cọp và 2 hiện vật gốm xưa
Thủa trước ở xứ này có nai, có cọp, có voi càng có căn cứ hơn vì chính ông nội của thầy từng kể rằng: hồi những năm 30, cứ vào tháng tháng 8, tháng 9 âm lịch là vạn săn ở vùng Mang Cá, Phụng Hiệp thường mở đợt săn nai…lúc này người dân ở vùng này vẫn còn đón bắt được những con nai chạy dạt ra tới đây. Thầy cũng đã đọc được tài liệu nói rằng - những năm 20-30 của thế kỷ trước (XX-PV), vùng Phụng Hiệp, Ngã Bảy còn là cánh đồng đầy lau sậy với voi đi hàng đàn.
Ông còn cho chúng tôi chiêm ngưỡng 2 nồi đất rất xưa cũng được lấy lên từ rạch Giồng Đá. 1 chiếc đã mẻ 1 phần ở vành miệng có nhiều mảng đã đen sạm, 1 chiếc còn nguyên màu trắng. Ông suy đoán: “Coi bộ 2 cái nồi đất này thì 1 cái đã dùng để nấu nướng còn 1 cái thì chưa”? Cũng vui vui với suy đoán này vì ông đâu phải là 1 nhà khảo cổ?! Ngoài những mảnh xương voi, xương cọp, gạc nai cùng 2 hiện vật gốm mà chúng tôi cho rằng có niên đại từ nền văn hoá Óc Eo, Thiên Phước cổ tự vẫn còn khá nhiều hiện vật khác mà Hoà thượng Thích Trí Phát đã bỏ công sưu tầm là: những bộ vòng gặt đủ kiểu, các kiểu dao phát cỏ, lưỡi cày.v.v… Tin rằng chỉ trong thời gian gần đây thôi, ước nguyện giản dị nhưng cũng rất thiết thực của ông là sẽ lập được 1 chỗ để lưu giữ những hiện vật của một thời “mở đất, khẩn hoang ở thôn Xuân Hoà và vùng phụ cận” trở thành hiện hiện thực.
Hoà thượng Thích Trí Phát giới thiệu với tác giả địa điểm đoàn khảo cổ Viện Viễn Đông bác cổ đã đào hố thám sát
Những câu chuyện hấp dẫn của miệt đất vườn Xuân Hoà vẫn còn nhiều, nhiều lắm. Những ai muốn khám phá về một thời mở đất của cha ông, mục kích những hiện vật, những bằng chứng sống động của một thời mở đất hào hùng hiện vẫn còn được người Xuân Hoà lưu giữ qua những câu chuyện kể, những hiện vật, những di tích cụ thể thì hãy dành thời gian để ngược lên Xuân Hoà, một vùng quê yên bình bên bờ Hậu Giang thơ mộng.