Kỳ 1 - Mênh mang Mỹ Thanh
Dòng Mỹ Thanh mênh mang, ôm trong lòng những truyền thuyết
và huyền thoại về một thời mở đất. Từng giờ, từng phút, từng giây...dòng Mỹ
Thanh vẫn cần mẫn chở nặng phù sa đắp bồi cho đất mẹ vươn dần ra biển lớn.
Không những vậy ! Với đặc thù địa lý của một vùng cửa sông đổ ra biển, Mỹ Thanh
còn là dòng sông mang đến cho người dân vùng này biết bao sản vật của vùng đất
rừng ngập nước, đem đến cho cư dân nơi đây một cuộc sống thật dễ chịu khi dưới
tán rừng "mùa nào thức nấy". Đây chính là điều cuốn hút chúng tôi quyết định
phải thực hiện một chuyến phiêu du để khám phá vùng đất cửa sông này.
Con sông có
dòng chảy ngược
Sông Mỹ
Thanh bắt đầu từ ngay Ngã tư rạch Cổ Cò (tên chữ là Lộ Cảnh), chảy theo hướng
đông bắc và đổ ra biển Đông. Mỹ Thanh có chiều dài khoảng 25 km, là ranh giới
tự nhiên của TX.Vĩnh Châu với huyện : Mỹ Xuyên và Trần Đề. Khi xưa, vùng đất bờ
sông phía biển thuộc sứ Bạc Liêu, bờ phía trong thuộc này Ba Xuyên. Cách đây
khoảng còn chưa lâu nếu so với chiều dài của dòng thời gian thì vùng đất hai
bên bờ sông chủ yếu chỉ làm một vụ lúa nhờ nước trời nhưng ngày nay, những
vuông tôm, những trại tôm đã ken dày suốt cả hai bờ. Vùng nào chuyên tôm thì cứ
nuôi tôm, vùng nào làm lúa thì đã làm được cả 3 vụ. Thảm thực vật hai bên bờ
sông là những loài đặc hữu của vùng đất, vùng rừng ngập nước như : Mấm trắng,
mấm đen, dừa nước và bần. Thi thoảng, lại ken những đám rau mui, ô rô, cóc kèn
dày đặc.
Nhìn trên bản
đồ, quan sát dòng chảy của những con sông của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
đổ ra biển, chúng ta dễ dàng nhận thấy dòng chảy của Mỹ Thanh gần như vuông góc
với những dòng sông khác. Ở đây, chỉ xét ở góc độ tương đối: Nếu Tiền Giang,
Hậu Giang và 9 cửa đều chảy ra biển theo hướng từ Bắc xuống Nam thì dòng Mỹ
Thanh lại đổ ra biển theo hướng từ Tây sang Đông. Với ảnh chụp từ vệ tinh mà
Google cung cấp, ta dễ dàng nhận thấy - dòng chảy của sông Mỹ Thanh cắt gần như
vuông góc với dòng Hậu Giang ở khu vực cửa Trần Đề. Có lẽ chính vì dòng hợp lưu
này, cộng thêm với tác động của dòng hải lưu biển đông đã tạo nên những dải
giồng cát đồng tâm với đường bờ biển, trài dài suốt dọc theo của đường bờ biển
Vĩnh Châu, làm nên vùng rừng ngập mặn đặc thù của cửa sông này.
Anh Lý Hoà Khương - Hạt trưởng hạt Kiêm lâm TX.Vĩnh Châu cho
biết :
- Cùng với rừng bần ở đuôi Cù Lao Dung, dải rừng Bãi Giá và
tuyến rừng đước, rừng mấm trải dài cả vùng cửa sông này đã làm nên một bãi sinh
sản lý tưởng cho rất nhiều giống loài thuỷ sản như : tôm càng, cá bông lau, cá
sủ, bãi nghêu giống, sò huyết....Mỹ Thanh còn là nguồn chính cấp nước cho các
vùng nuôi tôm nước lợ trong tỉnh nên có thể khẳng định rằng : nguồn tài nguyên
thiên nhiên mà con sông này mang lại cho người dân Sóc Trăng là rất lớn và cần
có biện pháp để ngăn ngừa tình trạng ô nhiễm môi trường trên cả tất cả lưu vực
của con sông này.
Những cánh rừng mấm, bần, chà là, đước chạy dài từ cửa Mỹ
Thanh suốt dọc theo ven biển Vĩnh Châu không chỉ có tác dụng giữ đất, lấn biển
mà dưới tán rừng, nguồn sản vật đã đem đến cho cư dân nơi đây một nguồn thuỷ,
hải sản thật phong phú. Dưới tán rừng đước, rừng mắm, rừng bần...đến mùa thì
thì người dân nơi đây đi bắt ba khía, bắt cua, bắt ốc, cào nghêu, vớt cá bống
kèo giống. Còn giăng lưới không chỉ là để kiếm thức ặn mà còn là một sinh kế
thường ngày của không ít người...chưa kể, cá thòi lòi, cá chốt nghệ luôn là
những đặc sản được giá.
Ngồi trên chiếc ghe cào chạy suốt từ ngã tư Cổ Cò xuôi ra
cửa mới thấy hết cái đẹp, cái tình của con sông này. Dòng sông trước mặt lúc
thì như hẹp lại, rồi lại mở ra một không gian mới rộng mênh mang, xanh ngắt ở
mỗi khúc quanh của con sông...
Cửa sông và xóm chài của những nghĩa dũng !?
Sách Gia định thành thông chí của tác gia Trịnh Hoài Đức ghi
chép về Mỹ Thanh hải môn xưa như sau: “rộng 10 dặm, khi nước lên sâu 12 thước
ta, nước ròng sâu 4 thước ta. Bờ phía tây có thủ sở...thổ sản ở đây là thuốc
lá, dưa quả và phơi tôm khô. Ngoài cảng về phía đông có cồn cát ngầm, dài chừng
5 dặm, ghe thuyền phải lo tránh”.
Theo mô tả của
Trịnh Hoài Đức, cửa Mỹ Thanh ngày xưa chắc chắn rộng và sâu hơn hiện nay. Bởi
cũng từ chính những đặc thù này mà hai bên bờ sông Mỹ Thanh, những làng chài,
bến đáy, xóm lưới mọc lên san sát nhau. Chỉ riêng điều này cũng đã cho thấy sự
giàu có về nguồn tài nguyên thuỷ sản mà dòng sông đã đem đến cho con người. Ở
vùng cửa sông này giờ có 2 xóm chài, xóm lưới nổi tiếng là Mỹ Thanh thuộc
TX.Vĩnh Châu và Mỏ Ó thuộc huyện Trần Đề.
Xóm chài Mỹ Thanh
là xóm chài được xem là lâu đời nhất ở vùng cửa sông này. Và cũng chính xóm
chài Mỹ Thanh là nơi Bác Tôn đã lần đầu tiên đặt lên đất liền sau những năm
tháng người bị thực dân Pháp đày ải ở địa ngục tràn gian Côn Đảo.
Theo những
bậc cao niên ở đây thì sau khi cuộc khởi nghĩa chống Pháp của lãnh tụ Trương
Công Định thất bại, những nghĩa binh phải lưu tán xa quê hòng tránh sự truy nã
của quân Pháp và tay sai. Sau nhiều ngày giong buồm xuôi về phương nam, họ đã
chọn nơi cửa sông này để định cư, lập nên xóm chài Mỹ Thanh ngày nay. Điều này
cũng lý giải vì sao những người dân cố cựu ở đây phần lớn đều có gốc gác ở miệt
Gò công, Tiền Giang...
Những cư dân ở đây thật hiền hoà, chất phác và cũng thât dễ
gần. Trên đường ghé thăm Lăng ông Nam Hải Mỹ Thanh vào khoảng 13h30 một ngày
giữa tháng 3/2012, thật may mắn cho chúng tôi là gặp được chú Sáu Tòng-Chánh
bái hội Lăng ông Mỹ Thanh. Những câu chuyện kể gắn liền với những địa danh,
những truyền thuyết mà chúng tôi được nghe, được thấy đã cho chúng tôi một cái
nhìn mới về cái đẹp của những câu chuyện kể, về tốc độ bồi lắng của phù sa lấn
biển, về nguồn tài nguyên phong phú nơi đây.
Những câu chuyện thú vị về tên cồn, bãi
Chú Sáu Tòng hào hứng kể cùng chúng tôi chuyện ngày xưa ở xứ
này:
-Vùng Hồ Lạng ngày xưa tới mùa thì khỏi cần đi câu cũng bắt
được cá Dứa (tức cá Bông Lau) để ăn. Cỡ tháng 7 tháng 8 âm lịch, khi trái mấm,
trái bần chín rụng thì chỉ cần chờ nước lớn, xách cây dao yếm hay cây mác đứng
canh đợi cá Dứa nhào lên mé hoặc len vô gốc mấm, gốc bần kiếm ăn mà chém rồi
xách về. Con nào con nấy 4-5 ký là chuyện thường. Còn tại sao lại gọi là cồn
Đầm hả? Nghe ông bà xưa nói lại thì đúng ra nó là cùng đường, vì ra tới đó là
đụng biển rồi...hết đường. Ở đó có cái cồn đẹp lắm. Hễ thứ 7, chủ nhựt là mấy
ông tây, bà đầm đánh xe xuống đó tắm. Ở ngoài cũng cất luôn cái nhà mát cho mấy
bà đầm nghỉ ngơi. Cái cồn này đầm xuống tắm hoài nên gọi luôn nó là Cồn Đầm cho
tới bây giờ.
Đến đây cũng cần tìm hiểu thêm về hai địa danh Cồn Sỏ, Hồ
bể. Theo chú Sáu Tòng thì địa phải gọi là Cồn Sọ mới là đúng nhứt vì ngày
trước, vùng cửa sông này còn có bãi cá đường hội. tới mùa cá đường hội, dân
chài chỉ bắt cá mổ lấy bong bóng...còn cá gộc, cá dứa thì chỉ lấy mình làm khô
còn đầu thì cắt bỏ. Đầu cá tấp vào cồn chất cả đống, cả đống sọ. Nhưng sau này
đọc trại riết ra thành Cồn Sỏ.
Theo miêu tả và sự chỉ dẫn của chú Sáu Tòng, chúng tôi men
theo giồng Mù U để đến Hồ Lạng. Trạm kiểm lâm Hồ Lạng nằm ngay đầu một con rạch
cho biết chúng tôi đã tìm đến nơi. Những cây đước, cây giá giờ đã ken dày thành
rừng. Một con đường đê nhỏ dẫn chúng tôi ra vụng nước Hồ Lạng ngày xưa. Hồ lạng nay đã lạng hẳn và rừng mắm, đước đã
mọc kín bãi... Tuy đã bồi lấp hẳn, kể như đã "lạng " mất, không còn cảnh cá
dứa, cá ngát chen nhau ăn trái bần, trái mấm khi nước lớn, nhưng dưới tán rừng
là nơi trú ngụ của lũ cá Thòi Lòi, một đặc sản của vùng rừng Sác. Chỉ cần một
buổi sáng, một người cũng có thể kiếm được hơn 100.000 đồng từ việc đi thụt cá
Thòi Lòi khi 1 kg cá hiện giờ bán cho vựa cũng đã là 60.000 đồng.
Đến vùng cửa sông này mà không đến chơi ở bãi biển Hồ Bể là
một thiếu sót lớn. Cả một vùng cát chạy dài suốt gần 2 km theo bãi biển. Khi
nước triều xuống, bãi cát cứ trải dài, dài mãi ra phía biển.
Vũng biển này được tạo thành chủ yếu là cát trắng và những
đụn cát trắng này thay đổi theo mùa gió và sóng biển. Vào mùa nồm nam, những
vành đai cát vươn ra phía biển và có xu hướng bồi lên những nổng cát mới. Điều
này được giải thích là do nguồn nước từ sông Hậu đổ xuống mang theo phú sa bồi
đắp và sóng biển chạy dọc từ hướng bãi Trà Sết ngược lên tạo thành. Đến mùa
chướng (tức là khi gió bấc về, bắt đầu khoảng cuối tháng 9, đầu tháng 10 âm lịch),
lúc này sóng lớn đập vào bờ từ hướng bắc xuống, cộng với triều cường nên lấy đi
những vành đai cát đã được thiên nhiên tạo lập trước đó. Mặt vũng lại mở rộng
như trước. Có lẽ đây chính là điều làm nên địa danh Hồ Bể. Chúng tôi lại nhớ
đến câu ca dao "Dã tràng xe cát biển Đông"...Mới có đó những rồi lại mất
đi, để rồi đến mùa nồm Nam
thì quay trở lại. Chỉ uổng công những chú Còng gió (Dã tràng) vẫn miệt mài xe
cát mỗi ngày trên bãi.
Đường đến Bồ Bể giờ đã dễ đi. Một con đường đã được mở để
nối Hồ Bể với đường Nam Sông Hậu. Có thể thấy rằng, dù chưa được đầu tư để trở
thành một khu du lịch sinh thái đúng nghĩa, nhưng cảnh quan của biển Hồ Bể cho
thấy: đây là vùng đất có tiềm năng mở ra một khu du lịch trong tương lai khi
hiện nay, đây đã là một điểm dã ngoại lý tưởng cho những hoạt động thể thao
ngoài trời như : đá bóng hay bóng chuyền trên bãi biển. Nhưng rồi cũng gợn lại
chút lo lắng...khi chợt nghĩ : du lịch thường đi kèm với...tàn phá môi trường,
với bê tông hoá nhũng khung cảnh nên thơ mà thiên nhiên đã phải trải qua hàng
trăm, hàng nghìn năm tạo lập. Thôi thì cứ xem đó là...lo xa vậy.
"Đi cho biết
đó, biết đây...." ! Hãy đi để thấy quê hương mình đang đổi thay từng ngày. Hãy
đi để thêm yêu những con người, những vùng đất mới đầu cứ tưởng như là xa lạ,
nhưng nếu đã đến một lần thì lại thấy nhớ, thấy quen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét