Từ câu chuỵện mà chú Sáu Tòng đã kể lại cùng chúng tôi ở
Lăng Ông Mỹ Thanh, chúng tôi quyết định phải đến thăm Giếng Ngự, tương truyền
đây là giếng nước do chính Chúa Nguyễn Ánh dùng gươm đào tìm mạch nước nước
ngầm khi bị dồn đến đường cùng.
Giếng ngự, Mộ Hoàng Cô
Huyền sử của vùng đất này kể rằng : Chúa Nguyễn Ánh thời còn
“ba chìm bảy nổi” đã cùng đoàn tùy tùng nhiều lần phải vào Nam để tìm sinh
lộ. Trong một lần buộc phải lui ra phía biển hòng tìm đường ra Côn Lôn, Phú
Quốc. Khi cả đoàn vừa đến được cửa sông Mỹ Thanh thì hết lương thực và nước
uống. Cả vùng rừng rậm, những nổng cát chạy dài...mùa khô chỉ toàn là nước mặn.
Chống gươm trên bãi, ngửa mặt lên trời chúa buông lời cảm thán: “Nếu khí số nhà
Nguyễn chưa tận thì xin trời hãy cho chúng tôi một giếng nước ngọt”.
Rồi Chúa dùng thanh gươm mang theo bên mình để đào vào lòng
bãi cát. Lạ lùng thay, nước ngọt đã rịn ra từ lòng đất và cứ thế chảy mãi, cứu
sống cả đoàn người. Cái giếng nước ấy người dân vùng này gọi là Giếng Ngự. Những
năm trước và cho đến mãi gần đây, giếng nước này vẫn là giếng nước ngọt duy
nhất cung cấp nước ngọt cho cư dân vùng giồng Mù U và xóm chài Mỹ Thanh, xóm
phủ Yết ở cách đó hơn 1km. Bên cái giếng bi giờ đã được mở rộng, chú Bảy Linh
nói cùng tôi :
-Hồi trước thì cái giếng này ngọt quanh năm. Coi như là mãn
mùa....nhưng vài năm gần đây xung quanh có nhiều người làm lô nuôi tôm cả trong
cả ngoài con giồng này nên coi bộ có mọi vô nhiều. Với lại cái nổng cát xưa giờ
cũng gần hết nên mùa nắng nước mặn cũng lừng vô giếng chút ít.
Chú Sáu Tòng thì hào hứng nhắc chuyện xưa : -Hồi nhỏ tui
cũng không ít lần lén lội xuống cái giếng này để ra mấy cái miệng giếng ! Hồi
đó ít nhất ở dưới có 3 miệng nước đẩy nước ngọt lên...mát lạnh cả chân.
Tôi hỏi : “Vậy là hồi xưa chỉ cần qua giếng Ngự là đã ra tới
biển” ? Ừ ! Vừa phụp xuống qua giồng Mù u là đã nhìn thấy biển. Biển ở kế bên
chớ không phải như bây giờ rừng đã phủ bít hết rồi.
Cũng theo lời truyền khẩu qua nhiều thế hệ ở vùng này thì
trong đoàn người theo Nguyễn Ánh chạy nạn có một đoàn tuỳ tùng, gồm cả vương
tôn, phi tần, võ tướng. Do giông bão nên một trong những chiếc thuyền này trôi
giạt vào cửa sông Mỹ Thanh. Trên chiếc thuyền có một vị võ tướng, một vài quân
lính theo hộ vệ công chúa Mỹ Thanh cùng một người cô của chúa Nguyễn Ánh. Nhóm
người này dừng lại ở đây, một đồn luỹ cũng được thiết lập ở nơi đây với dấu
tích là địa danh Giồng Đồn. Đây chính là khu vực ngay dưới chân cầu Mỹ Thanh ở
phía Vĩnh Châu. Tiếc rằng theo dòi bồi-lở của dòng sông, những tảng đá hộc, đá
ong...những mảnh vỡ của tô, dĩa, chén.v.v.đã theo dòng thời gian mà trôi theo
dòng chảy của dòng Mỹ Thanh !? Duy nhất chỉ còn lưu lại dấu tích là cái địa
danh « Giồng đồn » mà cư dân ở đây ai
cũng rành.
Lại kể tiếp chuyện xưa ! Do không hợp phong thổ lại ăn uống
thiếu thốn nên công chúa Mỹ Thanh, cùng người cô của Nguyễn Ánh, rồi cả viên võ
tướng cũng lần lượt mắc bạo bệnh rồi mất và được chôn cất tại đây..
Khi binh Tây Sơn kéo đến truy kích khiến đoàn người buộc
phải bôn tẩu. Ngôi mộ của vị công nương này được giao cho một người Hoa tên là
Yết trông nom. Đến khi thống nhất được giang san, lên ngôi vua với Đế hiệu Gia
Long, nhớ nghĩa xưa, nhà vua đã ban thưởng cho chú Yết rất hậu, phong cho làm
tri phủ (tri phủ hàm), được quyền thu hưởng hoa lợi từ tất cả các cơ sở đánh cá
suốt dọc dài theo bãi biển, tính từ vàm Mỹ Thanh ra đến cửa biển. Tên của Phủ
Yết còn được đặt cho dải giồng cát nơi chú Yết đã ở lúc sinh tiền. Giồng cát
này ngày nay vẫn còn nhưng đã lọt thỏm vào giữa dải rừng ngập mặn Mỹ Thanh.
Ngôi mộ của vị công nương xấu số cũng được xây dựng lại.
Ngày nay, dấu tích mộ Hoàng Cô vẫn còn ở Xâm Pha, hàng năm vẫn có khá đông
người đến viếng bái vào tiết Thanh Minh. Chỉ tiếc rằng câu trả lời cho câu hỏi:
Ai là người thât sự nằm dưới nấm mộ kia thì vẫn chưa có được lời giải đáp. Dòng
thời gian vô tình vẫn hàng ngày tiếp tục bào mòn đi dấu tích của ngôi mộ cổ.
Chúng tôi đã có dịp trao đổi cùng Tiến sĩ sử học Mai Thanh
Sơn - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam
quanh những truyền thuyết này. Ông khẳng định:
-Những câu chuyện về truyền thuyết luôn ẩn chứa những gì rất
bí hiểm nhưng cũng lại rất đời thường. Nó đời thường ở chỗ..nó luôn có tác dụng
rất lớn đối với cộng đồng cư dân tại chỗ. Bởi vì truyền thuyết luôn là những
câu chuyện đẹp. Nó mang lại cho người ta niềm tự hào, thể hiện lòng tự trọng,
mang lại cho cộng đồng cư dân nơi ấy một niềm tin nhấ định. Và trên hết, truyền
thuyết có tính cấu kết cộng đồng rất lớn. Tôi hình dung câu chuyện ở Mỹ Thanh,
Vĩnh Châu hay cả ở những vùng đất khác cũng thế thôi ! Nó đều có những lý do
nhất định để cho những truyền thuyết nảy nở và phát triển và có tác động lại
cộng đồng. Có thể nói tác động lớn nhất làm làm giàu thêm vốn văn hoá cho người
dây. Đây là điều không thể phủ nhận. Tác dụng thứ hai là với những truyền
thuyết như thế thì người dân tự xây dựng nên một bề giày truyền thống-cố kết họ
lại với nhau. Câu chuyện về Giếng Ngự, mộ Hoàng cô...có thể có ai đó nói rằng
đó không phải là Giếng Ngự ? Nó chỉ là một cái giếng dân gian mà ai đó huyền
thoại nó lên ? Chuyện đó cũng chẳng sao cả nếu như người dân ở đây cứ tin...và
nó làm cho người ở đây tự trọng hơn, tự hào hơn đối với quê hương.
Một câu hỏi khác cũng khá thú vị cho những nhà sử học là
trong quá trình ghi hình những thước phim này, chúng tôi được biết thêm một
ngôi mộ cổ khác, nằm cách mộ Hoàng Cô khoảng gần 1 km tính theo đường chim bay.
Ngôi mộ này có quy mô nhỏ hơn mộ Hoàng Cô nhưng còn khá nguyên vẹn, chỉ tiếc là
đá ong trong quá trình phong hoá đã hoàn toàn không còn giữ lại được bất kỳ nét
chữ nào trên bia mộ còn khá nguyên vẹn, khiến cho việc truy tìm tung tích của
người nằm dưới ngôi mộ này trở nên cực kỳ khó khăn đối với những người lãng du
như chúng tôi. Chúng tôi cũng được biết thêm rằng, cả hai ngôi mộ cổ này đều đã
là mục tiêu của bọn đào mộ trộm tìm báu vật vào những năm 70 của thế kỷ XX. Đây
phải chăng là nguyên nhân khiến cho mộ Hoàng Cô đã bị tàn phá?
Chú Lâm Tấn
Quang (71 tuổi) ở ấp Huỳnh Kỳ, xã Vĩnh Hải vẫn nhớ như in về bọn ‘’đào mộ
trộm’’ năm nào và đây cũng là câu chuyện mà nhiều người dân ở vùng này rành rẽ
đến cả tên người “cầm đầu” năm đó:
- Năm đó giải phóng đâu 1-2 năm rồi à ! Đêm đó cũng cỡ 11-
12 giờ đêm. Tui đang nằm trong nhà thì nghe tiếng đào đất hâm hịch..hậm
hịch..Tui ra thấy có tới 4 người lận. Tui hỏi : mấy ông làm gì đây ?Mấy ông
đàolàm gì ? thì mấy ổng liên rủ mình đào đồ, kiếm đồ chia ! Tui nói hông ! mấy
ông đào thì tui hổng cản nhưng mà cái chuyện này theo hiểu biết của tui thì cái
mộ này sau nhà nước cũng sẽ tầm thôi! Giờ mấy ông muốn đào thì mấy ông làm biên
bản, ký tên vô đó rồi mấy ông muốn làm gì thì làm. Đăng sau này nhà nước có
xuống sưu tra, kiếm hỏi ...mộ này ai đào thì tui đưa biên bản này ra ! Tới đó
thì mấy ổng hổng dám đào luôn và đi luôn từ đó đến giờ. Hàng năm, tui vẫn tảo
mộ, thanh minh cho người ta. Mộ nằm trên
đất của mình mà.
Phước Hải An Tự và chuyện con cọp cuối cùng ở Vĩnh Châu
Đến vùng đất này, thiết nghĩ cũng cần đến thăm Phước Hải An
Tự, một ngôi chùa Việt cổ ở giồng Vàm Sát xưa, tức là khu vực xã Lạc Hoà ngày
nay. Đến đây, ta sẽ được nghe câu chuyện về con cọp cuối cùng ở Giồng Sát, xứ
Vĩnh Châu, về một thời khó khăn, cực nhọc của những người khai phá vùng đất
mới.
Tính đến nay, Phước Hải An Tự đã trải hơn 160 năm với 6 đời
trụ trì. Đây có thể xem là một ngôi chùa do người Việt lập nên có niên đại lâu
đời nhất ở vùng này. Ngay từ khi mới lập chùa cho đến nay, các vị sự trụ trì
chùa đã cho trồng rất nhiều cây sao, vừa để tạo bóng mát, vừa để lấy gỗ xây
dựng.
Khi xưa, dưới những tán lá sao rợp mát, mái ngói rêu phong
của Hải Phước An Tự là khung cảnh cổ kính, nên thơ. Hiện nay, ngôi chùa dù đang
được xây dựng lại nhưng khung cảnh vẫn không khác xưa là mấy. Có chăng chỉ là
toà tháp vươn cao khỏi những tán lá sao. Lên đỉnh tháp, cả một vùng rộng lớn
của Xâm Pha, Giồng Mù U, Hồ Bể đều nằm trong tầm mắt. Biển vẫn thật gần.
Chuyện về cặp tượng ông Cọp được đặt ở toà tháp này cũng đã
cho chúng ta ngày hôm nay biết được những gian khó của người mở đất ngày
xưa. Rồi chuyện kể về con cọp cuối cùng
ở Giồng Sát đến nay vẫn được lưu truyền qua một bài vè con Cọp khá ngộ nghĩnh
mà hiện nay, chỉ còn vài người cao niên ở xứ này còn nhớ láng máng. Đó là vào thời điểm
năm 1927, khi vùng này vẫn còn hoang vu với những rải rừng sác rậm rạp. Những
chuyện xưa, tích cũ ở xứ Vàm Sát xưa thì nay chắc chỉ có ông Triệu Vinh Quang
(73 tuổi) là còn nhớ khá nhiều. Dưới tán
vườn cây sao cổ thụ ông vui vẻ đọc để tôi chép lại bài vè Con Cọp* và chuyện
ông Tà Sết. Theo đó thì vùng này còn khá nhiều rắn rít, ở mé ven biển Vĩnh Hải
xưa có một người tên là Sết có tài bắt rắn và trị rắn cắn. Người ta nói rằng
cái lưỡi của ông Sết đen từ ngoài vào tới trong. Khi bị rắn độc cắn, ông chỉ
cần lè lưỡi liếm vào vết rắn cắn là nọc
độc tiêu ngay. Chú Quang kể rằng chính ông Sết đã qua khu vực Chùa Hải Phước để
bắt 1 con rắn Hổ Mây lớn mà theo người trước kể lại thì ông chỉ ôm được khúc
đuôi con rắn này mang về vì con rắn đã chui kịp vào trong một hốc cây Lâm Vồ
lớn nên ông Sết ôm đuôi kéo ra không nổi bèn chặt lấy khúc đuôi. Còn rắn Hổ Mây
ngày sau bò ra chết ngoài trảng. Nó lớn tới mức phải 5-6 người khiêng mới nổi.
Địa danh Trà Sết chính là tên của ông.
Dòng thời gian như "bóng câu qua cửa sổ’’. Mới đó thôi
nhưng đã có câu chuyện vụt trở thành quá khứ, nhưng vẫn có những câu chuyện vẫn
còn như nguyên vẹn trong tâm thức của nhiều người qua những câu ca dao, bài vè
truyền khẩu. Đó chính là sức sống mãnh liệt của dòng văn hoá dân gian khi ghi
lại nhưng dấu ấn về con người, về quê hương, xứ sở. Quanh vấn đề này, T.S Mai
Thanh Sơn chia sẻ cùng tôi :
-Người ta sống không chỉ bằng ăn-uống, mặc-ở, đi lại mà còn
sống vì niềm tin nữa. Khi niềm tin ấy nhân sức mạnh của con người lên thì rõ
ràng là nó đã trở thành sức mạnh vật chất. Giúp con người vượt qua những gian
khó. Tôi nhận thấy rằng ở vùng cửa sông Mỹ Thanh và cả những vùng cửa sông tây
Nam Bộ trước đây vốn là vùng rừng ngập mặn....rừng liên rừng vốn gắn với câu "rừng thi6ng nước độc" mà. Có rất nhiều câu chuyện, truyền thuyết về ông Hổ,
cá sâu, rắn rết ở những khu rừng ấy với bao bí hiểm, nhưng cũng chính là nơi
cung cấp nguồn sống cho cư dân. Thông thường, người ta thường linh thiêng hoá
nó! Và để chế ngự được những thế lực vừa hư ảo, vừa có thực đó thì người ta
cũng phải tìm được sức mạnh tinh thần của chính mình. Và đôi khi những truyền thuyết,
những huyền thoại được xây dựng nên từ đó. Và điều quan trọng là nhờ nó mà
người ta trở nên mạnh mẽ hơn trước thiên nhiên hay ít nhất...cũng có thể thích
ứng được với thiên nhiên, từ đó mới duy trì được cuộc sống của cộng đồng và tồn
tại cho đến bây giờ. Truyền thuyết bao giờ cũng được xây dựng trên nền tảng của
sự thật và nếu như nó không có lý do thực tế thì nó cũng vẫn tồn tại với lý do
về mặt tinh thần. Làm sao đó để tạo được sức mạnh giúp con người vượt qua những
thời điểm khó khăn nhất.
Qua chuyến phiêu du này chúng tôi nghiệm ra rằng : có đi mới
hiểu, có đi mới thấy... để rồi mới thấy yêu quê hương, yêu đất nước mình hơn. Để
thấy quê mình quá đẹp, quá đáng yêu. Kể sao cho hết chuyện? Mỹ Thanh mênh mang
vẫn còn ẩn dấu bao điều kỳ thú đang chờ người khám phá.
*Vè con Cọp ở làng
Vàm Sát
Trải xem trong tổng Thạnh Hưng
Tại làng Vàm Sát có thôn Lạc Hoà
Trước là có phố có nhà
Lại thêm chùa phật, chùa bà rất linh
Tổng, làng dân sự an ninh
Cao Mên, Chệt Khách thái bình an cư
Kể từ năm tỵ tháng tư
Tại chùa Hải Phước ông sư trên chùa
Đang khi gõ mõ vẽ bùa
Nghe la có
cọp chạy ùa ra coi
Kẻ thì sách
mác cầm roi
Ông sư miệng
niệm nam mô
Ngài là ông
chúa đừng hô um súm
....
Có chệt Mã
Xiêm
Tay cầm cu
liêm
Giựt gài
móng lay..
Sơn lâm nổi
giận trở quày
Vố cho một
vố thẹo trầy huyên thuyên
Mã xiêm
thất vía ngả nghiêng
Anh em xúm
lại mà khiêng Xiêm về
Tưởng là
xiêm đã có nghề
Hay đâu
xiêm lại nhà quê quá đời.
Vợ con la
khóc kêu trời
Chuyến này
mày chết hết đời Xiêm ơi
Bảy Cụt
chưa rõ khúc nôi
Còn đang
uống rượu loi thoi nhậm nhầy
Nghe la có
cọp tới đây
Mau mau
bước xuống mời ngài đi tu
Chấp tay
cúi lạy chổng khu
Xin ông
thương lão đạo tu bạn cùng
Ai ngờ đến
lúc cơn khùng
Lại gần ông
cọp anh hùng mới khen
Tưởng là
ông cọp làm quen
Hay đâu ông lại chen vô cấu quào
Bảy Cụt
hoảng hốt té nhào
…..
(Đến đây
thì chú Quang đã quên mất những đoạn sau nhưng chú khẳng định là bài vè cẫn còn
dài. Chú hứa sẽ cố gắng lần nhớ và sưu tầm lại đầy đủ để tôi chép lại).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét