Thứ Năm, 20 tháng 9, 2012

Mỹ Thanh Du ký (Kỳ 5) : Rạch Gòi - Lịch Hội Thượng và những ngôi chùa chứng tích



Từ ngã ba Tài Văn, xuôi theo tỉnh lộ 8, dọc theo kênh Tiếp Nhựt  khoảng 15-16 cây số là đến một thị trấn khá sầm uất nằm ở tả ngạn Mỹ Thanh – đó là thị trấn Lịch Hội Thượng. Vốn là một khu dân cư sầm uất từ xưa, không ít người đã ví von rằng : ‘’Cái chợ ba dấu nặng này trước giờ luôn là điểm trung tâm của chiếc đòn gánh – gánh cả hai bờ tả - hữu Mỹ Thanh’’.
Bản đồ khu vực Tả ngạn Mỹ Thanh năm 1881


 Rạch Gòi - Lịch Hội Thượng

Cho đến tận hôm nay, vẫn còn rất nhiều người gọi thị trấn Lịch Hội Thượng bằng một tên xưa cũ - chợ Gòi. Địa danh này bắt nguồn bởi một từ gốc khmer Prék Koi do đọc trại ra âm tiếng Việt - rạch Gòi hoặc từ cách phiên âm tiếng pháp. Cuối thế kỷ 19, địa danh gốc này đã được ghi nhận trên bản đồ của chính quyền thực dân Pháp. 
Một căn nhà xưa ở TT.Lịch Hội Thượng
Còn với những người Hoa đã sinh sống ở đây từ xa xưa thì Lịch Hội Thượng lại có tên gọi mà phiên âm Hán Việt là : pha lễ bán. Cụm từ này dùng để chỉ hình thế của vùng đất này là cao ráo nhưng không bằng phẳng ; phân nửa là rừng. Phải chăng đây chính là hình thế đất giồng ? Dù tên có gì thì vẫn cần phải khẳng định rằng : nơi đây đã là một trung tâm buôn bán-trao đổi hàng hoá có từ lâu đời và vẫn phát triển cho đến tận hôm nay. Và cũng trên vùng đất này, cộng đồng 3 dân tộc : Kinh-Hoa-Khmer đã sống cộng cư từ lâu và cùng nhau khai khẩn vùng đất này.

Lịch Hội Thượng xưa thuộc tổng Định Mỹ với trên 5.000 dân, vốn là hai làng Lịch Hội Trung và Lịch Hội Thượng hợp lại và đây là một khu dân cư quan trọng. Còn Dư địa chí Sóc Trăng năm 1936 thì ghi nhận Rạch Gòi là 1 trong 13 trung tâm thương mại của tỉnh Sóc Trăng được xây dựng bên cạnh conra5ch cùng tên : ‘’Chợ Rạch Gòi được chuyển thành trung tâm thị tứ loại 3 theo nghị định ngày 13/8/1925, là một khu dân cư khá quan trọng nằm ở đông-nam tỉnh Sóc Trăng...Hồ dđầu thế kỷ XX, Rạch Gòi đã có 787 dân đăng tịch, đa số là người Kh’mer và người Hoa, liên thông với qua con đương hàng tổng dài 14 km’’.

Có một thực tế là mặc dù không có vai trò quan trọng về thương mại nếu chỉ nhìn ở góc độ hàng hoá chính yếu của Sóc Trăng khi ấy là lúa gạo, nhưng chợ Rạch gòi đã là một trung tâm buôn bán-trao đổi hàng hoá nhu yếu phẩm thei61t yếu của cả một vùng đất rộng lớn hai bên bờ sông Mỹ Thanh bởi khi xưa, giao thông chủ yếu của cư dân trong vùng này vẫn là đường thuỷ chứ không phải là đường bộ như bây giờ...vai trò ấy vẫn giữ vững cho đến ngày nay.

Ông Hồ Xuân Vĩnh (65 tuổi), chủ tiệm bánh Đức Phát cho biết rằng tiệm bánh của ông đã có từ 3 đời nay, chuyên làm đủ các loại bánh mứt như thèo lèo, bánh pía, bánh trung thu.v.v. Từ thời những năm 40 của thế kỳ XX và cả sau đình chiến năm 1954, tiệm Đức Phát luôn là tiệm bán buôn cả sỉ và lẻ cho các tiệm nhỏ từ vàm Dù, Vàm Lẻo, chợ Giồng Chùa, Lạc Hoà (của Vĩnh Châu) và bên tả ngạn là suốt từ chợ Bãi Giá (Long Phú) cho đến Tài Văn (Mỹ Xuyên). Mức độ buôn bán hầu như cứ giữ nguyên và có phần phát triển mạnh lên sau khi được tách ra thành huyện Trần Đề.

Ông Nguyễn Đại Lượng, Nguyên bí thư TT.Lịch Hội Thượng những năm 80 của thế kỷ XX thì ví von hơn : ‘’Chợ Gòi dù nằm bên tả ngạn Mỹ Thanh nhưng lại có vai trò như là phần giữa của một cái đón gánh – gánh cả hai bờ Mỹ Thanh vì ngày trước, hệ thống đường xá nào được như bây giờ. Đi chợ Gòi với một phần các xã vùng sâu của huyện Vĩnh Châu là thuận tiện hơn cả.

Những góc phố cũ mái ngói âm dương cổ kính chen lẫn những căn nhà mới xây tươi mới vươn cao, chen lẫn những mảng rêu phong dọc mái hiên tựa như dấu ấn thời gian vẫn còn khắc ghi đậm trong câu ví von của không ít người nơi đây mà tôi chép lại : ‘’cái chợ ba dấu nặng này trước giờ luôn là điểm trung tâm của chiếc đòn gánh – gánh cả hai bờ tả-hữu Mỹ Thanh’’ !

Chợ Gòi - Lịch Hội Thượng giờ đang chuyển mình trong một vị thế mới, là thị tứ trung tâm của huyện ven biển Trần Đề với thế mạnh kinh tế chủ lực là nuôi trồng thuỷ sản và khai thác biển. Chợ Gòi cũ giờ đã quá tải và đang rất cần khoác lên mình một chiếc áo mới tương xứng. ngồi trò chuyện bên góc Chợ Gòi với anh Ánh, anh Kiệt, anh Phước...những người đang buôn bán và làm việc ở chợ Lịch Hội Thương, tôi chợt nhận thấy chuyện xây chợ, phát triển chợ sao cho đẹp, cho thuận tiện bán buôn đang là điểm tương đồng của cả người dân và nhà nước. Anh Lý Tuấn Kiệt-chủ tiệm vàng Tuấn Kiệt, người đăng ký cả 4 gian ki-ốt ngay đầu nhà lồng chợ mới đang trong quá trình xây dựng cho biết :

-Làm cái nhà lồng chợ mới này thì nhà nước làm ‘’chủ xị’’, còn những người kinh doanh có nhu cầu thì góp vốn để xây chợ. tất cả đều thông qua họp dân, bàn bạc các thứ hết. Từ góp ý cho thiết kế, góp ý việc xây dựng, giám sát.v.v.rồi phân chia thời gian và các đợt góp vốn. Nói chung là... ‘’hợp tác vui vẻ’’ !

 ....và những ngôi chùa chứng tích chiến tranh
Trong chiến tranh chống Mỹ, chợ Lịch Hội Thượng vốn là một chợ trung tâm quận. Chính vậy nên những vùng ven, vùng lân cận quận lỵ thường xuyên bị Mỹ, Nguỵ chà đi-sát lại hòng đánh bật lực lượng du kích, bộ đội địa phương bám dân, bám đất dọc hai bờ tả-hữu Mỹ Thanh. Đặc biệt là vào những 60 của thế kỷ XX. Nghe chú Ba Hưng (74 tuổi-nguyên Huyện uỷ viên huyện Lịch Hội Thượng) kể chuyện chiến trường ác liệt, rồi những trận đánh năm xưa mới cảm thấy khâm phục lớp cha anh của một thời bom đạn ác liệt nhưng oai hùng thủa nào. Trong khoảng thời gian từ năm 1965 đến 1968, Mỹ-Nguỵ thường xuyên rải chất độc hoá học làm rụng lá cây dọc theo những cánh rừng hai bên bờ Mỹ Thanh. Chính vì vậy mà bộ đội, du kích cũng phải di động, thường xuyên thay đổi chỗ ở. Rồi bọn biệt kích khét tiếng do tên Mương chỉ huy thường xuyên đột kích, rồi lính bảo an ở Phân khu Bảo An đóng ngay vàm Bãi Giá kềm siết và chà đi sát lại. Chỉ cần nghe tin ‘’Việt Cộng đi’’ là bọn bảo an bố trí bao đánh. Ngay cả tiểu đoàn địa phương quân của tỉnh cũng gặp không ít khó khăn khi hoạt động ở vùng này.

-Cái vùng đó là vùng chiến lược, cửa ngõ của tỉnh đổ ra biển mà ! Đời sống của mình lúc đó thì thôi..thiệt gian khổ. Được một cái là lực lượng của mình cỡ tụi tui lúc đó đều còn trẻ..cỡ 27-28 và lớn lắm là 30 tuổi. Còn nhiều anh em du kích đa phần từ 20 tới 25. Do đó tất cả những khó khăn, tất cả những bom đạn, tất cả chuyện thiếu cơm ăn, thiếu áo mặc tụi tui đều vượt qua được.
Chú Ba Hưng và tác giả

Chuyện bom đạn ì đùng và khủng khiếp như thế nào thì lớp trẻ ngày nay chỉ thấy..trên phim...nhưng đến vùng đất này thì chỉ cần đến thăm 2 ngôi chùa là Prêk Chat ở Giồng Chát và Long Thiền Tự ở Tổng Cán thì sẽ cảm nhận ngay được cái ‘’tàn bạo, khốc liệt’’ của chiến tranh được ngay. Riêng toi thì lại nghĩ ‘’Nếu đã chiến tranh thì cửa phật cũng không chừa’’ ?
Chánh điện chùa Prêk Chat

Chùa Prêk Chat ngày nay đã được xây dựng lại mới và thật đẹp trong quang cảnh rộng rãi của làng quê thanh bình, nhưng trong khuôn viên chùa - bia chứng tích chiến tranh vẫn ghi rõ : ‘’ngày 8/5/1965, chính quyền Mỹ, Nguỵ đã dùng máy bay ném bom thảm sát, giết và làm bị thương trên 300 thường dân vô tội (đa số là người già, phụ nữ và trẻ em) ở các xã Lịch Hội Thượng, Liêu Tú thuộc huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Đây là những tội ác dã man do bọn Mỹ, Nguỵ gây ra sau những thất bại nặng nề trên chiến trường miền nam Việt Nam’’.

Chú Thạch Chuốt (65 tuổi), một nhân chứng của vụ thảm sát năm ấy giờ cất nhà ngay cạnh chùa kể lại :

-Khi ấy tôi cũng đang tu tập ở chùa này. Vệt bom trải dài từ Tổng Cán vắt sang đây. Sa-La của chùa cũng trúng một trái. Sau đợt bom, tui cùng những vị sư ở đây và những người khác nhào đi cứu thương, tìm kiếm và khâm liệm những người chết dọc dải giồng này. Cảnh tượng khi đó thảm lắm...nhà sập, nhà cháy, người chết rồi tiếng kêu khóc làm người ta phải ám ảnh cả một thời gian dài.

Cũng hứng trọn một trái bom trong tháng 5 ấy là Long Thiền Tự nằm ở cuối rạch Tổng cán. Chánh điện ngôi chùa này hứng trọn trái bom nên sập hoàn toàn. Hố bom ngày xưa giờ đã được lấp và trên chính hố bom ấy, một Lâm Tì Ni đã được dựng lên hẳn như một ước nguyên cho hoà bình, an lạc.
Tác giả và cô Diệu Hương đang "thăm" những pho tượng "thương binh"

Thế nhưng điểm đặc biệt nhất của Long Thiền Tự chúng tôi chỉ được biết khi cô Diệu Hương dẫn chúng tôi vào gian chính điện hiện tại và chỉ cho xem những pho tượng gỗ. Tất cả các pho tượng đều mang trên mình dấu tích của chiến tranh. Cô cho biết : tượng 18 vị La Hán do bằng sành nên đều vỡ nát, chỉ còn lại 21 pho tượng gỗ dù bị hư hỏng nhưng đều đã được phục hồi và tu sửa lại. Đó là những tiên ông, hộ pháp, phật Di Lặc, Văn Thù...rồi Phật Tổ đều mang dấu tích...đó có thể một vạt gỗ ở cánh tay bị mảnh dom vạt bay mất nay còn dấu chắp vá, đó có thể là thanh gươm gãy, chú voi gãy ngà, gãy vòi.v.v. Vậy nhưng gương mặt của tất cả vẫn như đang nở nụ cười hiền từ, như tha thứ cho những kẻ đã gây nên cảnh bom đạn tang thương, như khuyên nhủ con người hãy tránh xa chiến tranh, hướng đến một tương lai chan hoà tình nhân ái.


Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2012

Mỹ Thanh Du Ký (kỳ 4)Tả ngạn Mỹ Thanh và con rạch Tổng Cán

Khi đọc những tài liệu về một dòng sông, chúng ta thường bắt gặp hai từ : tả ngạn và hữu ngạn. Tả là bên trái, đối lập với bên phải. Con trên một dòng sông, tả ngạn là bờ sông bên phía tay trái, ngược lại với bên phải -  hữu ngạn của con sông. Góc nhìn và cách gọi này theo hướng dòng nước chảy từ nguồn xuống. Phải chăng bắt đầu từ một quan niệm có tính chất luân lý : Tất cả đều bắt đầu từ nguồn cội !? Theo ranh giới địa lý hiện nay thì hầu như toàn bộ huyện Trần Đề nằm ở tả ngạn sông Mỹ Thanh.

Sách Dư địa chí Sóc Trăng năm 1904, trong phần Sông Rạch tự nhiên có đoạn viết : ‘’Miền hạ lưu sông Mỹ Thanh có hai con rạch khá quan trọng chảy vào, đó là rạch Tầm Vu thông sang Ba Xuyên ở phía trên và rạch Tổng Cán chảy từ nam lên bắc trên độ dài 15km. Còn có rạch Gòi và rạch Cô Ảo? chảy vào khoảng giữa cửa sông Mỹ Thanh’’. 


Tấm bản đồ cũ và...ông Tà Mơn

Chuyến phiêu du khám phá vùng đất tả ngạn Mỹ Thanh của chúng tôi bắt đầu từ con rạch Tổng Cán. Dựa trên tấm bản đồ được vẽ vào năm 1891 thì đây là một con rạch khá lớn. Địa danh ghi trên tấm bản đồ này ghi theo phiên âm là Tong cane cùng một điểm tròn đánh dấu vị trí của khu dân cư...Dùng bản đồ cũ có cái lợi là chúng tôi có thể dễ dàng so sánh và cảm nhận được sự thay đổi của những vùng đất mà chúng ta đã đặt chân đến với những đổi thay của hiện tại so với thời điểm mà tấm bản đồ này được lập.

Điều thú vị đầu tiên mà chúng tôi nhận thấy ở đây là ở tấm biển tên chiếc cầu bắc qua đầu con rạch đề tên là cầu Trà Mơn? Trong khi với người địa phương thì lại gọi là rạch Tà Mơn. Còn ở Dư địa chí Sóc Trăng năm 1904 và trên cả bản đồ in cùng năm lại không hề ghi nhận những địa danh này? Lời giải đáp đã có ngay từ vị thượng toạ trụ trì ngôi chùa Sê rây Ta Mơn cổ kính nằm ngay đầu con rạch. Thượng toạ Trần Văn Tha (th.s Phật học) bắt đầu bằng câu chuyện cổ tích về 3 anh em đã có công khai phá vùng đất này. Người anh lớn có tên là Pích, người em có tên là Nôn và người em út có tên là Mơn. Mỗi người bỏ công sức khai phá một vùng đất hoang, tạo lập nên 3 vùng đất mà những địa danh vẫn còn gắn liền với tên của họ cho đến tận ngày nay.

-Trong 3 anh em thì ông Mơn không có con cái nên sau khi mất, ông đã hiến toàn bộ đất đai của ông cho bổn sóc để dựng nên ngôi chùa này. Chính để nhớ công ơn của người đã khai phá đất nên bà con Kh’mer ở đây dùng tên ông để gọi tên ngôi chùa. Vì ngôi chùa nằm ngay trên con rạch nên dân gian vẫn dùng luôn tên này để gọi con rạch. Ngày trước thực ra vùng đất này rất thấp, nhiều lung bàu...

Như vậy có thể tạm khẳng định rằng : con rạch mà người dân nơi đây vẫn quen gọi là rạch Tà Mơn có tên chữ trên bản đồ hành chính là rạch Tổng Cán !? Ngày trước, con rạch như một ranh giới tự nhiên phân chia rõ rệt hai vùng đất : một bên là phèn mặn nặng cùng với những cánh rừng thấp ngập nước - một bên là những vùng đất thuộc.

...đến ‘’Thần nông lắt’’ ở Liêu Tú

Ngắm những cánh đồng dọc theo hai bờ con rạch Tổng Cán lúa đang lên xanh hẳn ít ai biết rằng cũng chỉ mới gần đây thôi – vào những năm 80 của thế kỷ trước, chuyện làm ra hạt lúa của nhà nông nơi đây không phải là dễ. Đồng Tổng Cán, giồng Chac ngày xưa vốn là đồng cầm trâu, nhiễm phèn, mặn nặng...vốn chỉ có cỏ Năn là chủ yếu, cánh đồng chỉ làm được 1 vụ lúa mùa nhờ nước trời là chính. Qua quá trình tìm tòi của mình, vị thượng toạ trụ trì chùa Sê rây Ta Mơn cũng cung cấp cho chúng tôi một thông tin khá thú vị về một kinh nghiệm sản xuất của cư dân nơi đây khi xưa là : ‘’Muốn xuống giống, bắt đầu một vụ lúa chính thức thì bà con mình luôn để xem lá cây Giá đã xuống màu đỏ rực chưa. Nếu là cây giá xuống màu đồng loạt thì có thể yên tâm xuống giống vì lúc này mùa mưa đã chính thức bắt đầu, ít phải lo lắng vì hạn bà chằng’’.

Làm lúa ngày xưa cực khổ là vậy nhưng vì đồng rộng mênh mông, lúa làm khi ấy ‘’lấy diện tích để bù năng suất’’ nên nhà nào cũng không phải lo lắng nhiều chuyện thiếu lúa, thiếu gạo...Còn thức ăn thì cá, tép dưới sông lúc nào cũng sẵn nên khỏi phải lo.

Ông Đinh Thiên Cần - Nguyên Bí thư xã Liêu Tú những 80 của thế kỷ XX nhớ lại một thời bắt đầu chuyển qua làm lúa tăng vụ ở xứ này :

-Những năm đó lúa ở vùng này làm chỉ cần 14-15 giạ là kể như trúng rồi đó. Vậy mà năm 82-83 tụi tui làm ‘’thần nông lắt’’ ...tính như bây giờ phải trên 4 tấn. Giống gì hả ? Ai biết là giống gì..chỉ biết nó là lúa thần nông, rồi được mấy nhà nông đi ‘’lắt’’ từng bông, từng bông về làm giống. Chính từ cái ‘’thần nông lắt’’ này mà phong trào thuỷ lợi đê làm lúa tăng vụ ở vùng này phát triển mạnh.
                 Mùa lúa trên đồng Liêu Tú (ảnh chụp tháng 4 năm 2011)

Những đồng tiền cổ ở Tổng Cán...

Ở gần cuối con rạch là một khu dân cư khá sầm uất – đó chính là ấp Tổng Cán. Tổng Cán nằm trên một con giồng và tên dân giã mà người vùng này vẫn gọi là xóm Phố với phố Trên, Phố giữa và phố dưới. Hẳn đây là một khu dân cư được hình thành từ khá sớm trong quá trình khai phá vùng đất này vì hôm nay, chúng tôi tìm đến chú Tám Sển (Quách Văn Sển (65 tuổi)) - một cư dân cố cựu ở vùng này và cũng là người đã đào được 1 hũ tiền cổ cũng ở trên con giồng này, đoạn giồng cạnh bên Long Thuyền Tự. Hũ tiền đựng những xâu tiền có niên hiệu Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Câu chuyện mà chú Tám kể đã giúp chúng tôi hình dung rõ nét hơn một khung cảnh đặc thù của vùng tả ngạn Mỹ Thanh thời mà người xưa bắt đầu đến khai phá đất, lập làng...

-Hồi xưa lúc tui còn nhỏ xíu thì con đường chạy trên con giồng này không nằm ở đây. Nó nằm chệch ra mé ngoài một chút. Dọc theo con đường lúc đó tui đi học ở trường làng thì cứ  khoảng năm chục-một trăm mét là có một cây xoài lớn mà mấy lão tiền bối trồng để người qua lại có bóng mát nghỉ chân. Vùng này hồi đó nghe nói có cọp nhưng tới thời của tui..những năm 40 đó...thì tui hết thấy. Nhưng heo rừng và khỉ thì tui gặp hoài.
Thêm chú thích

...và con rạch của hoa sen

Rạch Tà Mơn vào những năm 2004-2006 có lẽ là một trong những cảnh đẹp của làng quê Sóc Trăng thanh bình. Xem lại những bức  ảnh chụp tại rạch Tà Mơn vào đầu năm 2006 mà tôi đã có dịp đi cùng nhóm bạn đã khiến nhiều người ngây ngất. Con rạch với bạt ngàn hoa sen chen lẫn các rặng dừa, bần, dừa nước khiến cho phong cảnh ở đây nên thơ vô cùng. Vậy nhưng ở thời điểm mà chúng tôi ghi những thước phim này thì thật tiếc, con rạch vừa được nạo vét trước đó hơn 2 tháng nên những bờ sen chưa thể mọc lại kịp. Chuyến rong ruổi theo con rạch Tổng Cán của chúng để tìm những đám sen của ngày xưa đã có kết thúc thật thú vị khi gặp dì Trần Thị Mỹ Lệ (năm Lệ). Qua câu chuyện của chính Dì Lệ và những đám sen hồng ở đầu rạch Tổng Cán.

-Cũng nhờ sen không đó. Chỉ với vạt sen cặp bờ rạch này với gần 1 công rưỡi sen ở miếng lung trước nhà mà nuôi 3 đứa con ăn học thành người đó! Chỉ có ngó sen thôi đó. Đứa lớn bây giờ làm kế toán ở Sóc Trăng, thằng con trai thứ 2 đang học năm tư đại học, còn nhỏ út năm nay cũng thi đại học.

-Nhắm em nó thì đậu không hả Dì Năm ? Tôi hỏi :
-Chưa có kết quả nhưng năm học rồi là học sinh giỏi của trường Lịch Hội Thượng à nghen !

Quanh chuyện cây sen, ngó sen, củ sen...Dì Lệ còn hào hứng kể cùng tôi chuyện từng là ‘’người mẫu chụp hình’’ với hoa sen bên con rạch này. Quãng năm 2004-2005, có 3 ông ‘’chụp hình’’ mang một mớ áo dài vô đây nhờ Dì Lệ chèo xuồng, hái sen...ôi đủ thứ hết để chụp hình. Tiếc là những tấm ảnh ấy các con của Dì Lệ đã cất hết ở đâu đó nên tôi không được chiêm ngưỡng chúng.

 Đến giờ này thì Dì Năm Lệ chẳng còn nhớ nổi tên của 3 ông thợ ‘’chụp hình’’ vì thời gian đã non cả chục năm rồi còn gì ? Nhưng tôi tin chắc một điều rằng khi ấy hẳn Dì Lệ sắc sảo lắm và những đoá sen trải dài dọc theo rạch Tà Mơn đã tạo nên một khung cảnh nên thơ lắm !? Nếu không vậy thì làm gì có chuyện những nghệ sĩ nhiếp ảnh phải lặn lội xuống tận đây để sáng tác chứ ?
 
Những tấm ảnh rạch Tà Mơn vào năm 2006 (ảnh: Khoa Nam - www.soctrang-online.net)