Thứ Bảy, 25 tháng 8, 2012

Mỹ Thanh Du Ký-Kỳ 3 : Giếng ngự, Mộ Hoàng Cô và con Cọp cuối cùng ở Giồng Sát



Từ câu chuỵện mà chú Sáu Tòng đã kể lại cùng chúng tôi ở Lăng Ông Mỹ Thanh, chúng tôi quyết định phải đến thăm Giếng Ngự, tương truyền đây là giếng nước do chính Chúa Nguyễn Ánh dùng gươm đào tìm mạch nước nước ngầm khi bị dồn đến đường cùng.      

Giếng ngự, Mộ Hoàng Cô
Huyền sử của vùng đất này kể rằng : Chúa Nguyễn Ánh thời còn “ba chìm bảy nổi” đã cùng đoàn tùy tùng nhiều lần phải vào Nam để tìm sinh lộ. Trong một lần buộc phải lui ra phía biển hòng tìm đường ra Côn Lôn, Phú Quốc. Khi cả đoàn vừa đến được cửa sông Mỹ Thanh thì hết lương thực và nước uống. Cả vùng rừng rậm, những nổng cát chạy dài...mùa khô chỉ toàn là nước mặn. Chống gươm trên bãi, ngửa mặt lên trời chúa buông lời cảm thán: “Nếu khí số nhà Nguyễn chưa tận thì xin trời hãy cho chúng tôi một giếng nước ngọt”.

Rồi Chúa dùng thanh gươm mang theo bên mình để đào vào lòng bãi cát. Lạ lùng thay, nước ngọt đã rịn ra từ lòng đất và cứ thế chảy mãi, cứu sống cả đoàn người. Cái giếng nước ấy người dân vùng này gọi là Giếng Ngự. Những năm trước và cho đến mãi gần đây, giếng nước này vẫn là giếng nước ngọt duy nhất cung cấp nước ngọt cho cư dân vùng giồng Mù U và xóm chài Mỹ Thanh, xóm phủ Yết ở cách đó hơn 1km. Bên cái giếng bi giờ đã được mở rộng, chú Bảy Linh nói cùng tôi :

-Hồi trước thì cái giếng này ngọt quanh năm. Coi như là mãn mùa....nhưng vài năm gần đây xung quanh có nhiều người làm lô nuôi tôm cả trong cả ngoài con giồng này nên coi bộ có mọi vô nhiều. Với lại cái nổng cát xưa giờ cũng gần hết nên mùa nắng nước mặn cũng lừng vô giếng chút ít.

Chú Sáu Tòng thì hào hứng nhắc chuyện xưa : -Hồi nhỏ tui cũng không ít lần lén lội xuống cái giếng này để ra mấy cái miệng giếng ! Hồi đó ít nhất ở dưới có 3 miệng nước đẩy nước ngọt lên...mát lạnh cả chân.

Tôi hỏi : “Vậy là hồi xưa chỉ cần qua giếng Ngự là đã ra tới biển” ? Ừ ! Vừa phụp xuống qua giồng Mù u là đã nhìn thấy biển. Biển ở kế bên chớ không phải như bây giờ rừng đã phủ bít hết rồi.

Cũng theo lời truyền khẩu qua nhiều thế hệ ở vùng này thì trong đoàn người theo Nguyễn Ánh chạy nạn có một đoàn tuỳ tùng, gồm cả vương tôn, phi tần, võ tướng. Do giông bão nên một trong những chiếc thuyền này trôi giạt vào cửa sông Mỹ Thanh. Trên chiếc thuyền có một vị võ tướng, một vài quân lính theo hộ vệ công chúa Mỹ Thanh cùng một người cô của chúa Nguyễn Ánh. Nhóm người này dừng lại ở đây, một đồn luỹ cũng được thiết lập ở nơi đây với dấu tích là địa danh Giồng Đồn. Đây chính là khu vực ngay dưới chân cầu Mỹ Thanh ở phía Vĩnh Châu. Tiếc rằng theo dòi bồi-lở của dòng sông, những tảng đá hộc, đá ong...những mảnh vỡ của tô, dĩa, chén.v.v.đã theo dòng thời gian mà trôi theo dòng chảy của dòng Mỹ Thanh !? Duy nhất chỉ còn lưu lại dấu tích là cái địa danh «  Giồng đồn » mà cư dân ở đây ai cũng rành.

Lại kể tiếp chuyện xưa ! Do không hợp phong thổ lại ăn uống thiếu thốn nên công chúa Mỹ Thanh, cùng người cô của Nguyễn Ánh, rồi cả viên võ tướng cũng lần lượt mắc bạo bệnh rồi mất và được chôn cất tại đây..

Khi binh Tây Sơn kéo đến truy kích khiến đoàn người buộc phải bôn tẩu. Ngôi mộ của vị công nương này được giao cho một người Hoa tên là Yết trông nom. Đến khi thống nhất được giang san, lên ngôi vua với Đế hiệu Gia Long, nhớ nghĩa xưa, nhà vua đã ban thưởng cho chú Yết rất hậu, phong cho làm tri phủ (tri phủ hàm), được quyền thu hưởng hoa lợi từ tất cả các cơ sở đánh cá suốt dọc dài theo bãi biển, tính từ vàm Mỹ Thanh ra đến cửa biển. Tên của Phủ Yết còn được đặt cho dải giồng cát nơi chú Yết đã ở lúc sinh tiền. Giồng cát này ngày nay vẫn còn nhưng đã lọt thỏm vào giữa dải rừng ngập mặn Mỹ Thanh.

Ngôi mộ của vị công nương xấu số cũng được xây dựng lại. Ngày nay, dấu tích mộ Hoàng Cô vẫn còn ở Xâm Pha, hàng năm vẫn có khá đông người đến viếng bái vào tiết Thanh Minh. Chỉ tiếc rằng câu trả lời cho câu hỏi: Ai là người thât sự nằm dưới nấm mộ kia thì vẫn chưa có được lời giải đáp. Dòng thời gian vô tình vẫn hàng ngày tiếp tục bào mòn đi dấu tích của ngôi mộ cổ.


Chúng tôi đã có dịp trao đổi cùng Tiến sĩ sử học Mai Thanh Sơn - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam quanh những truyền thuyết này. Ông khẳng định:

-Những câu chuyện về truyền thuyết luôn ẩn chứa những gì rất bí hiểm nhưng cũng lại rất đời thường. Nó đời thường ở chỗ..nó luôn có tác dụng rất lớn đối với cộng đồng cư dân tại chỗ. Bởi vì truyền thuyết luôn là những câu chuyện đẹp. Nó mang lại cho người ta niềm tự hào, thể hiện lòng tự trọng, mang lại cho cộng đồng cư dân nơi ấy một niềm tin nhấ định. Và trên hết, truyền thuyết có tính cấu kết cộng đồng rất lớn. Tôi hình dung câu chuyện ở Mỹ Thanh, Vĩnh Châu hay cả ở những vùng đất khác cũng thế thôi ! Nó đều có những lý do nhất định để cho những truyền thuyết nảy nở và phát triển và có tác động lại cộng đồng. Có thể nói tác động lớn nhất làm làm giàu thêm vốn văn hoá cho người dây. Đây là điều không thể phủ nhận. Tác dụng thứ hai là với những truyền thuyết như thế thì người dân tự xây dựng nên một bề giày truyền thống-cố kết họ lại với nhau. Câu chuyện về Giếng Ngự, mộ Hoàng cô...có thể có ai đó nói rằng đó không phải là Giếng Ngự ? Nó chỉ là một cái giếng dân gian mà ai đó huyền thoại nó lên ? Chuyện đó cũng chẳng sao cả nếu như người dân ở đây cứ tin...và nó làm cho người ở đây tự trọng hơn, tự hào hơn đối với quê hương.

Một câu hỏi khác cũng khá thú vị cho những nhà sử học là trong quá trình ghi hình những thước phim này, chúng tôi được biết thêm một ngôi mộ cổ khác, nằm cách mộ Hoàng Cô khoảng gần 1 km tính theo đường chim bay. Ngôi mộ này có quy mô nhỏ hơn mộ Hoàng Cô nhưng còn khá nguyên vẹn, chỉ tiếc là đá ong trong quá trình phong hoá đã hoàn toàn không còn giữ lại được bất kỳ nét chữ nào trên bia mộ còn khá nguyên vẹn, khiến cho việc truy tìm tung tích của người nằm dưới ngôi mộ này trở nên cực kỳ khó khăn đối với những người lãng du như chúng tôi. Chúng tôi cũng được biết thêm rằng, cả hai ngôi mộ cổ này đều đã là mục tiêu của bọn đào mộ trộm tìm báu vật vào những năm 70 của thế kỷ XX. Đây phải chăng là nguyên nhân khiến cho mộ Hoàng Cô đã bị tàn phá? 

Chú Lâm Tấn Quang (71 tuổi) ở ấp Huỳnh Kỳ, xã Vĩnh Hải vẫn nhớ như in về bọn ‘’đào mộ trộm’’ năm nào và đây cũng là câu chuyện mà nhiều người dân ở vùng này rành rẽ đến cả tên người “cầm đầu” năm đó:

- Năm đó giải phóng đâu 1-2 năm rồi à ! Đêm đó cũng cỡ 11- 12 giờ đêm. Tui đang nằm trong nhà thì nghe tiếng đào đất hâm hịch..hậm hịch..Tui ra thấy có tới 4 người lận. Tui hỏi : mấy ông làm gì đây ?Mấy ông đàolàm gì ? thì mấy ổng liên rủ mình đào đồ, kiếm đồ chia ! Tui nói hông ! mấy ông đào thì tui hổng cản nhưng mà cái chuyện này theo hiểu biết của tui thì cái mộ này sau nhà nước cũng sẽ tầm thôi! Giờ mấy ông muốn đào thì mấy ông làm biên bản, ký tên vô đó rồi mấy ông muốn làm gì thì làm. Đăng sau này nhà nước có xuống sưu tra, kiếm hỏi ...mộ này ai đào thì tui đưa biên bản này ra ! Tới đó thì mấy ổng hổng dám đào luôn và đi luôn từ đó đến giờ. Hàng năm, tui vẫn tảo mộ, thanh  minh cho người ta. Mộ nằm trên đất của mình mà.

Phước Hải An Tự và chuyện con cọp cuối cùng ở Vĩnh Châu
Đến vùng đất này, thiết nghĩ cũng cần đến thăm Phước Hải An Tự, một ngôi chùa Việt cổ ở giồng Vàm Sát xưa, tức là khu vực xã Lạc Hoà ngày nay. Đến đây, ta sẽ được nghe câu chuyện về con cọp cuối cùng ở Giồng Sát, xứ Vĩnh Châu, về một thời khó khăn, cực nhọc của những người khai phá vùng đất mới.          

Tính đến nay, Phước Hải An Tự đã trải hơn 160 năm với 6 đời trụ trì. Đây có thể xem là một ngôi chùa do người Việt lập nên có niên đại lâu đời nhất ở vùng này. Ngay từ khi mới lập chùa cho đến nay, các vị sự trụ trì chùa đã cho trồng rất nhiều cây sao, vừa để tạo bóng mát, vừa để lấy gỗ xây dựng.



Khi xưa, dưới những tán lá sao rợp mát, mái ngói rêu phong của Hải Phước An Tự là khung cảnh cổ kính, nên thơ. Hiện nay, ngôi chùa dù đang được xây dựng lại nhưng khung cảnh vẫn không khác xưa là mấy. Có chăng chỉ là toà tháp vươn cao khỏi những tán lá sao. Lên đỉnh tháp, cả một vùng rộng lớn của Xâm Pha, Giồng Mù U, Hồ Bể đều nằm trong tầm mắt. Biển vẫn thật gần.

Chuyện về cặp tượng ông Cọp được đặt ở toà tháp này cũng đã cho chúng ta ngày hôm nay biết được những gian khó của người mở đất ngày xưa.  Rồi chuyện kể về con cọp cuối cùng ở Giồng Sát đến nay vẫn được lưu truyền qua một bài vè con Cọp khá ngộ nghĩnh mà hiện nay, chỉ còn vài người cao niên ở xứ này còn nhớ láng máng. Đó là vào thời điểm năm 1927, khi vùng này vẫn còn hoang vu với những rải rừng sác rậm rạp. Những chuyện xưa, tích cũ ở xứ Vàm Sát xưa thì nay chắc chỉ có ông Triệu Vinh Quang (73 tuổi) là còn nhớ  khá nhiều. Dưới tán vườn cây sao cổ thụ ông vui vẻ đọc để tôi chép lại bài vè Con Cọp* và chuyện ông Tà Sết. Theo đó thì vùng này còn khá nhiều rắn rít, ở mé ven biển Vĩnh Hải xưa có một người tên là Sết có tài bắt rắn và trị rắn cắn. Người ta nói rằng cái lưỡi của ông Sết đen từ ngoài vào tới trong. Khi bị rắn độc cắn, ông chỉ cần lè lưỡi liếm vào vết rắn cắn  là nọc độc tiêu ngay. Chú Quang kể rằng chính ông Sết đã qua khu vực Chùa Hải Phước để bắt 1 con rắn Hổ Mây lớn mà theo người trước kể lại thì ông chỉ ôm được khúc đuôi con rắn này mang về vì con rắn đã chui kịp vào trong một hốc cây Lâm Vồ lớn nên ông Sết ôm đuôi kéo ra không nổi bèn chặt lấy khúc đuôi. Còn rắn Hổ Mây ngày sau bò ra chết ngoài trảng. Nó lớn tới mức phải 5-6 người khiêng mới nổi. Địa danh Trà Sết chính là tên của ông.

Dòng thời gian như "bóng câu qua cửa sổ’’. Mới đó thôi nhưng đã có câu chuyện vụt trở thành quá khứ, nhưng vẫn có những câu chuyện vẫn còn như nguyên vẹn trong tâm thức của nhiều người qua những câu ca dao, bài vè truyền khẩu. Đó chính là sức sống mãnh liệt của dòng văn hoá dân gian khi ghi lại nhưng dấu ấn về con người, về quê hương, xứ sở. Quanh vấn đề này, T.S Mai Thanh Sơn chia sẻ cùng tôi :

-Người ta sống không chỉ bằng ăn-uống, mặc-ở, đi lại mà còn sống vì niềm tin nữa. Khi niềm tin ấy nhân sức mạnh của con người lên thì rõ ràng là nó đã trở thành sức mạnh vật chất. Giúp con người vượt qua những gian khó. Tôi nhận thấy rằng ở vùng cửa sông Mỹ Thanh và cả những vùng cửa sông tây Nam Bộ trước đây vốn là vùng rừng ngập mặn....rừng liên rừng vốn gắn với câu "rừng thi6ng nước độc" mà. Có rất nhiều câu chuyện, truyền thuyết về ông Hổ, cá sâu, rắn rết ở những khu rừng ấy với bao bí hiểm, nhưng cũng chính là nơi cung cấp nguồn sống cho cư dân. Thông thường, người ta thường linh thiêng hoá nó! Và để chế ngự được những thế lực vừa hư ảo, vừa có thực đó thì người ta cũng phải tìm được sức mạnh tinh thần của chính mình. Và đôi khi những truyền thuyết, những huyền thoại được xây dựng nên từ đó. Và điều quan trọng là nhờ nó mà người ta trở nên mạnh mẽ hơn trước thiên nhiên hay ít nhất...cũng có thể thích ứng được với thiên nhiên, từ đó mới duy trì được cuộc sống của cộng đồng và tồn tại cho đến bây giờ. Truyền thuyết bao giờ cũng được xây dựng trên nền tảng của sự thật và nếu như nó không có lý do thực tế thì nó cũng vẫn tồn tại với lý do về mặt tinh thần. Làm sao đó để tạo được sức mạnh giúp con người vượt qua những thời điểm khó khăn nhất.

Qua chuyến phiêu du này chúng tôi nghiệm ra rằng : có đi mới hiểu, có đi mới thấy... để rồi mới thấy yêu quê hương, yêu đất nước mình hơn. Để thấy quê mình quá đẹp, quá đáng yêu. Kể sao cho hết chuyện? Mỹ Thanh mênh mang vẫn còn ẩn dấu bao điều kỳ thú đang chờ người khám phá. 

Hãy đi để thấy rằng mỗi con sông, mỗi tên làng, tên đất đều gắn liền với những huyền sử hào hùng của những lớp người xưa đi mở cõi.



*Vè con Cọp ở làng Vàm Sát

Trải xem trong tổng Thạnh Hưng
Tại làng Vàm Sát có thôn Lạc Hoà
Trước là có phố có nhà
Lại thêm chùa phật, chùa bà rất linh
Tổng, làng dân sự an ninh
Cao Mên, Chệt Khách thái bình an cư
Kể từ năm tỵ tháng tư
Tại chùa Hải Phước ông sư trên chùa
Đang khi gõ mõ vẽ bùa
Nghe la có cọp chạy ùa ra coi
Kẻ thì sách mác cầm roi
Ông sư miệng niệm nam mô
Ngài là ông chúa đừng hô um súm
....
Có chệt Mã Xiêm
Tay cầm cu liêm
Giựt gài móng lay..
Sơn lâm nổi giận trở quày
Vố cho một vố thẹo trầy huyên thuyên
Mã xiêm thất vía ngả nghiêng
Anh em xúm lại mà khiêng Xiêm về
Tưởng là xiêm đã có nghề
Hay đâu xiêm lại nhà quê quá đời.
Vợ con la khóc kêu trời
Chuyến này mày chết hết đời Xiêm ơi

Bảy Cụt chưa rõ khúc nôi
Còn đang uống rượu loi thoi nhậm nhầy
Nghe la có cọp tới đây
Mau mau bước xuống mời ngài đi tu
Chấp tay cúi lạy chổng khu
Xin ông thương lão đạo tu bạn cùng
Ai ngờ đến lúc cơn khùng
Lại gần ông cọp anh hùng mới khen
Tưởng là ông cọp làm quen
Hay  đâu ông lại chen vô cấu quào
Bảy Cụt hoảng hốt té nhào
…..
(Đến đây thì chú Quang đã quên mất những đoạn sau nhưng chú khẳng định là bài vè cẫn còn dài. Chú hứa sẽ cố gắng lần nhớ và sưu tầm lại đầy đủ để tôi chép lại).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét